Hành Trình Về Phương Đông P1

Hành Trình Về Phương Đông P1
 

Chương 1: MỘT NGƯỜI ẤN LẠ KỲ

 


Ấn Độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. đạo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt của người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hóa của họ là một thứ văn minh đạo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết linh nghiệm chẳng đâu vào đâu có. bởi vậy Hội Khoa học tôn thất đã bảo trợ cho phái đoàn chúng tôi đến Ấn Độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.
Ảnh Minh Họa
Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn Độ từ Bombay đến Calcutta, viếng thăm hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nức danh, phái đoàn vẫn không thỏa mãn hay học hỏi được điều gì mới lạ. phần nhiều các giáo sĩ chỉ lặp đi lặp lại những điều đã được ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần hóa huyền thoại để đề cao văn hóa xứ họ. phần nhiều tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là chân sư (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng trần (Bhagwan). Ấn Độ giáo không có một chương trình đào tạo tu sĩ như công giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để cuốn tín đồ. Ấn Độ giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các đạo châu Âu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giảng giải kinh điển theo sự hiểu biết của họ. phần nhiều cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn giao hội để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận đạo là điều rất thường xảy ra, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của Thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu đạo của phái bộ không mang lại kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc điệu, rối rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa học tôn thất chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt cơ bản trên nền tảng khoa học, hợp lý, nhưng lấy tiêu chuẩn này ứng dụng sẽ gặp nhiều chướng ngại vì văn hóa Ấn Độ và văn hóa châu Âu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp thuận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt liệt, một cách khôn xiết chịu đựng.

Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hẩu lốn ầm ĩ, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bổng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nao núng. Đám đông xúm lại chào xáo coi bộ thán phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bã á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ Ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ chấm dứt khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích quần chúng ném theo… Đang mê mải suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, tư thế khác thường chuyên chú nhìn ông mỉm cười.

Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh vô cùng đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn đáp:

- Các vị minh sư đâu có ngụ cư trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in cạc với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải lăng xê các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông môn đồ, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nức danh và có đông tín đồ vì họ biết thu thập môn đồ qua các hình thức lăng xê, biết hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, tự nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?

Giáo sư Spalding sửng sốt:

- Tại sao ông biết rõ như thế? Người Ấn mỉm cười:

- Các ông đã bàn với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về châu Âu và kết luận rằng châu Á chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ kì bí Á châu.

Giáo sư Spalding mất bình tĩnh:

- Nhưng vì sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái bộ còn có nhiều người chưa rõ kia mà?

Người Ấn nở một nụ cười bí ẩn và khoan thai nhấn mạnh:

- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà bữa nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc Kinh Thánh: “Hãy gõ, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm, rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.

Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh Thánh làm giáo sư Spalding ngất ngây như say như tỉnh. Toàn thân ông rung động như chạm phải một luồng điện cao thế.

Ông lắp bắp:

- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các tỉnh thành, làng mạc xứ Ấn…

Người Ấn nghiêm nghị trả lời:

- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn nằm bên trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ nguyện cầu. đạo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự truy cầu chân lý. Một số người đã thắng đoạt tự nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời ơi… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.

Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:

- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chân sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…

Giáo sư Spalding thắc mắc:

- Ông vừa dùng danh từ chân sư, vậy chứ chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?

- Nếu ông tin ở thuyết tiến hóa của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: “Sự tiến hóa của vong linh đi song đôi với thân xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hóa; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”.

- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?

Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:

- kiên cố như thế, nhưng phép thần thông đâu phải là mục đích tối hậu của con đường cầu đạo. Nó chỉ là kết quả thiên nhiên do sự tụ hợp tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là đánh tháo, là trở thành toàn thiện như những đấng cao cả mà Đức Jesus là một.
Ảnh Minh Họa
Giáo sư Spalding cãi:

- Nhưng Chúa Jesus đã từng làm các phép lạ. Người Ấn bật cười đáp:

- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng Chúa Jesus làm vậy cho mục đích khoe hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những công cụ để cảm hóa những người dân nhân đức, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.

Một lần nữa, người Ấn lạ thường này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người phương Tây đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Thế vì sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy bảo nhân dân?

Người Ấn nghiêm nghị:

- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho dương thế biết mình là ai chăng? Nếu Đức Phật hay Đấng Christ hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không? có nhẽ các ngài phải trình diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho quần chúng. # thì các ông mới tin phải không? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo trình diễn để cuộn giáo đồ, nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?

- Nhưng… nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho cõi tục đâu?

Người Ấn mỉm cười:

- Vì không biết rõ các ngài nên cõi trần không thể xét đoán các ngài một cách đúng đắn. Ai bảo rằng các ngài

không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi cả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một chứng cớ, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được.

Bạn thân mến, chúng ta không dễ gì hiểu thấu những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả. có nhẽ câu đáp giản dị nhất là các ngài phụng sự thiên hạ một cách lặng thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng thương xót, có nhân, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó khôn cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng căn bản, chỉ dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.

Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị Chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không?

- Bạn thân mến, thảy đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.

Nói xong, người Ấn Độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ của đô thị Benares.

 

 

 

Chương 2: NGƯỜI ĐẠO SĨ THÀNH BENARES



thành phố Benares là một nơi có nhiều di tích lịch sử và có rất nhiều tu sĩ. Bất cứ một người Âu Mỹ nào đến đây cũng sửng sốt về tỉnh thành dân cư đông đúc, nhà cửa san sát và khắp nơi nhan nhản những đền thờ, lăng tẩm khổng lồ. Có những ngôi đền trông thì thật cổ kính, nghiêm trang nhưng khi bước vào trong bạn sẽ thấy gì? Một số giáo đồ hành lễ ngô nghê vừa nguyện cầu, vừa rung một cái chuông nhỏ để lời cầu xin của họ thấu đến tai các vị thần. Một số khá đông đạo sĩ ngồi trong các phong độ yoga cực kỳ lạ thường, khó tập dượt để tín đồ đến bỏ tiền vào trong cái bát nhỏ bày trước mặt họ. Chúng tôi có cảm tưởng như họ đang làm xiếc trình diễn kiếm ăn hơn là thực hành một pháp môn tu hành chân chính.

Trong khi mọi người trong phái đoàn đang quay phim những đạo sĩ ngồi trên bàn đinh, các đền thờ to lớn, thì giáo sư Spalding thư thả đi dạo ngoài bờ sông. Ông nhìn thấy một đạo sĩ vóc người vạm vỡ đang đi gần đó. Như có một mãnh lực vô hình nào đó xúc tiến, Spalding muốn vượt lên để nhìn cho rõ, ông bèn rẽ qua một lùm cây rậm rạp để bắt cho kịp vị đạo sĩ nọ. Vừa đi được vài bước, ông đã giật mình vì gặp một con rắn hổ mang to lớn chặn lối. Rắn hổ là một loại rắn cực độc, hàng năm có hàng ngàn người bị rắn cắn chết, vì ở xứ Ấn giống rắn này có nhiều vô thiên lủng, xuất hiện khắp nơi. Tiến thoái lưỡng nan, Spalding chưa biết phải làm gì thì con rắn đã trườn tới ngẩng cao cổ phun phì phì. bất thần vị đạo sĩ ở đâu đi đến, lặng im bước thẳng vào giữa con rắn và giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ giơ tay vuốt nhẹ, con rắn từ từ bò vào trong bụi rậm, mất hút trước sự sửng sốt của giáo sư Spalding. Vị đạo sĩ mỉm cười khoan thai nói:

- Cái phàm ngã hữu hình, hữu hoại chẳng thể làm việc này, mà đó là cái Chân Ngã thâm diệu - cái mà ta gọi là Thượng đế ngự trong tôi và muôn loài - đã khiến con rắn bỏ đi. Khi hoàn toàn gạt bỏ cái phàm ngã bên ngoài để cho cái Chân Ngã tự biểu lộ và hành động thì không chuyện gì có thể xảy ra nữa. Bằng cách phát triển toàn vẹn tình thương và có nhân của Thượng đế, cho nó xuyên qua mình và ban rải cho muôn loài, ta sẽ cảm hóa được các loài thú dữ. Khi ông vừa gặp con rắn, một ý nghĩ sợ hãi phát ra, và tôi đã nhận được ý nghĩ này; ngoài ra dường như ông có ý muốn gặp tôi?
Ảnh Minh Họa
Giáo sư Spalding ấp úng:

- Chúng tôi đang đi tìm các hiện tượng huyền bí của châu Á. thú thiệt là tôi đang cảm thấy hoang mang và thất vọng về những điều trông thấy ngoài chợ, nhưng khi vừa nhìn thấy ông, tôi linh giác có một sự gì dị thường. nghe đâu có một mãnh lực vô hình nào đó xui khiến vậy.

Đạo sĩ chuyên chú nhìn giáo sư một mai dấu cho ông này ngồi xuống bên gốc cây cổ thụ gần đó. Đạo sĩ lên tiếng:

- Sáng nay trong lúc thiền định, tôi nhận được một thông điệp về các ông, do đó tôi mới rời am thất đi dạo bên ngoài. Phải chăng các ông muốn tìm hiểu về phép Yoga? Đáng lý không bao giờ tôi tiết lậu điều này, nhưng tôi đã nhận thông điệp phải giúp đỡ các ông vậy thì ông cứ hỏi, tôi sẽ nạm đáp tùy theo sự hiểu của mình.

- Xin ông cho chúng tôi được biết về phép Yoga. Đạo sĩ lặng yên trong chốc lát và lên tiếng:

- Không ai biết rõ pháp môn Yoga bắt đầu từ lúc nào trong lịch sử. Kinh sách Ấn Độ giáo nói rằng thần Shiva truyền dạy môn này cho hiền triết Gheranda. Nhà hiền triết dạy lại cho các môn sinh của ông nhưng chỉ có Marteyanda là lĩnh hội được những điều tinh túy và phổ thông trong giới trí thức thời đó.

Yoga là một khoa học bao gồm nhiều thứ, từ thiên văn, địa lý, đến triết học, toán học, v.v. Pháp môn tôi được truyền dạy gọi là Hatha Yoga, chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ Yoga. Theo lời sư phụ tôi thì trong thời cực thịnh, Yoga phát triển khắp nơi và cuộn giới hiền triết, trí thức rất đông. Theo thời kì, thời hoàng kim đã qua, nhân loại đã sa vào hố thẳm của sa đọa vật chất, bị thu hút vào các cám dỗ xác thịt. Để chống lại sự phá sản linh tính này, các hiền triết đã họp nhau lại để tìm một giải pháp. Sau cùng họ đi đến kết luận là cho phép truyền dạy một phần của môn Yoga cho quần chúng. #, nhằm đem lại một giải pháp cho giai đoạn lúc đó. Phần được truyền dạy này trích ở chương Yuj (Cái ách) gồm các phương pháp cột tinh thần lẫn thể xác trong một kỷ luật khắt khe để đạt mục đích là tụ hợp Tâm và Thân làm một với bản thể trời đất ơi. Từ đó phần này được quảng bá khắp nơi và tồn tại đến ngày nay. Vì trích ở chương Yuj, nên nó được gọi là Yoga. Nên nhớ đây chỉ là một phần rất nhỏ của môn Yoga nguyên thủy, thế mà phần nhỏ này cũng chỉ rất ít người hiểu rõ một cách đúng đắn. phần nhiều đã hiểu sai nên mới có các lối tập tành kỳ dị, các lối tu khổ hạnh rồ dại, các phong độ lố bịch. Như các ông thấy, có các đạo sĩ nằm bàn đinh, giơ cánh tay lên trời cho đến khi nó khô liệt. Việc tập dượt như thế không bổ ích gì mà cũng chả mang lại một kết quả gì. Đó là những kẻ làm ố danh dự một môn khoa học như Yoga. Đối với phần đông, Yoga đã bị hạ thấp xuống thành một môn thể dục để thân khỏe mạnh cường tráng.

tuy vậy, nếu luyện đúng cách nó vẫn mang lại nhiều kết quả tốt cho thể xác. Nhưng các đạo sĩ (Yogi) lại khác, họ biết rằng tập dượt môn này sẽ giúp họ khám phá các năng lực tiềm ẩn, mầu nhiệm, giúp họ đạt các phép thần thông biến hóa.

Để luyện ý chí, họ tụ tập năng lực vào các việc như hành xác, bắt nó chịu các thử thách cực độ như phơi nắng, dầm sương, ngồi trên than hồng, đứng bằng tay, tréo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát, lấy gươm xiên vào da thịt, v.v.

Để chứng minh quyền năng ý chí, họ đem trò này ra trình diễn cho quần chúng để tìm cách vừa kiếm tiền, vừa hưởng sự kính trọng của đám nhân dân khờ khạo.

Mục đích của Yoga đâu phải làm trò lạ mắt cho thiên hạ kính phục.

Giáo sư Spalding ngắt lời:

- Nhưng ta có nên trách họ không? Nếu các đạo sĩ chân tu giấu kín các phép tu chân truyền thì sự hiểu lầm làm sao tránh khỏi.
Ảnh Minh Họa
Đạo sĩ mỉm cười thong thả giải thích:

- Một ông vua có khi nào phơi bày ngọc ngà châu báu cho mọi người coi chơi. Có phải ông ta sẽ cất giấu thật cẩn thận? Pháp môn Yoga còn gì quý bằng, nên người tu chân chính không khi nào đem rao bán ngoài chợ. Kẻ nào thực lòng muốn học hỏi thì phải ra sức kiêng kị, và đó là cách độc nhất. Một danh sư không cần quảng cáo rần rộ vì không cần các môn sinh xúm vào xưng tụng. Trái lại, ông tuyển chọn đệ tử gắt gao và chỉ truyền dạy các giáo lý bí truyền khi người đồ đệ ấy tỏ ra xứng đáng. Khoa Yoga bí ẩn vì cách tập luyện rất nguy hiểm đối với người non kém, chưa đủ khả năng. Khai mở các bí huyệt đâu phải trò chơi tầm thường.

Có rất nhiều môn Yoga khác nhau, nhưng tôi tu luyện theo môn Hatha Yoga, nhắm vào việc chủ trị xác thân trước khi chủ trị ý thức. Lúc đầu ta phải tập tành bắp thịt và bộ máy hô hấp cho thật thành thạo, sau đó mới đi vào thần kinh, não tủy. Nếu tập đúng cách, sức khỏe sẽ tăng cường, sống lâu và có ý chí mạnh mẽ. Đó chỉ là giai đoạn nhập môn, nó đòi hỏi ít ra từ một đến bốn năm mới đáng kể. cơ thể có cường tráng, ý thức có gan góc mới có thể tiếp chuyện bước vào thời đoạn kế tiếp.

Giáo sư Spalding gật gù:

- Như thế môn này khác phương pháp thể dục của người Âu Mỹ thế nào? Chúng tôi cũng có nhiều cách khiến thân khỏe mạnh.

Đạo sĩ bật cười lớn:

- Người Âu Mỹ biết cách làm thân nảy nở trên bộ da, bắp thịt, làm sao so với lối tập tành của người Á châu, vốn chú trọng từ bên trong ra đến bên ngoài. trước tiên có bốn cách thức cơ bản: ngơi nghỉ làm xoa dịu thần kinh, cân não. Tĩnh tọa để hội tụ ý chí. Điều tức để tẩy uế thân, khu trục các chất cặn bã, và Khí công để kiểm soát hơi thở. Hãy lấy một ví dụ giản dị như việc ngơi nghỉ, hãy quan sát con mèo khi nó nằm yên hay khi rình bên lỗ chuột. Con mèo biết cách dưỡng sức, bảo tàng sinh lực không hao phí chút nào. Mỗi tư thế, mỗi cử động là cả một sự nghĩ suy, kiểm soát để thoải mái tối đa. Người Âu các ông tưởng mình biết ngơi nghỉ, nhưng thật ra các ông không biết gì cả. Các ông ngồi trên ghế một lúc rồi quay bên này, ngả bên nọ. Khi thì tréo chân, lúc lại dang tay, coi thì thoải mái nhưng trí óc các ông hoạt động liên hồi từ việc này đến việc nọ. Như thế chỉ là hoạt động thầm lặng chứ đâu phải nghỉ ngơi. Loài vật biết cách dưỡng sức do chúng có bản năng dìu dắt, mà bản năng là tiếng nói thiên nhiên. Loài người được chỉ dẫn bằng lý trí, nhưng thay vì làm chủ lý trí, họ đã không kiểm soát được bộ óc của mình nên hậu quả là cả hệ thống thần kinh thân xác đều bị ảnh hưởng. Sự ngơi nghỉ hoàn toàn gần như không có.

Giáo sư Spalding thở dài xăm:

- Đó là điều chúng tôi không bao giờ nghĩ đến, nhưng liệu ông có thể nói rõ hơn để tôi hiểu đơn giản môn Hatha Yoga là gì không?

- Tôi chỉ có thể nói về một đôi tư thế giúp con người tăng cường sức khỏe thôi. Có hai mươi phong thái (Asana), mà ai cũng có thể tập tành để tăng cường sinh lực. Các phong thái này tác động đến một số bí huyệt có ảnh hưởng lên các cơ quan suy yếu, giúp chúng hoạt động trở lại mạnh mẽ hơn. Khoa học phương Tây đã chứng minh rằng ngoài các huyết quản chính, thân thể con người còn có hàng triệu

các mao quản chạy khắp nơi để đưa dưỡng khí nuôi thân thể. Nếu một cơ quan hay bắp thịt ít hoạt động hay suy yếu, thì số lượng các mao mạch cũng giảm bớt đi. Tập thể thao hay bơi lội có thể làm các mạch máu nhỏ này gia tăng hoạt động, khiến cơ quan hồi phục. Cũng như thế, tập các phong thái Yoga sẽ làm luồng dưỡng khí lưu chuyển, khích động bên trong khiến các cơ quan hoạt động đúng với chức năng vốn có. Do đó, nó mang lại nhiều hiệu quả diệu huyền hơn. Con người không lo gì bệnh tật nữa, nếu có bệnh thì cũng sẽ khỏi hoàn toàn.

Giáo sư Spalding lắc đầu:

- Tôi không tin người Âu Mỹ sẽ chấp nhận rằng việc tập Yoga chữa được hết bệnh tật.

Đạo sĩ mỉm cười:

- Một thân khỏe mạnh, cường tráng làm sao có thể bị bệnh được? Bệnh tật là do sự mất quân bình trong cơ thể. Người Âu Mỹ các ông chỉ biết hoạt động chứ đâu biết nghỉ ngơi, thế đã là lý do gây nên các bệnh tâm thần rồi.

- Thôi được, xin ông nói thêm về cách tập luyện. Cần phải luyện tập ra sao?

Đạo sĩ thong thả giải thích:

- Việc trước hết là phải ngồi cho thoải mái, ngồi trên ghế, nhất là các ghế bành êm ái rất có hại cho xương sống - con đường vận hành chính của luồng dưỡng khí - và là nguyên nhân gây nên các chứng đau lưng, liệt, tê thấp. Phép ngồi thật ra rất dễ, chỉ cần ngồi xếp bằng dưới đất, không dựa vào đâu, không chao đảo bên nào, giữ thân thật thăng bằng, xương sống phải thật thẳng và thở nhẹ, đều đặn. Ai cũng có thể thở nhẹ trong vài phút nhưng sau đó sẽ lại thở loạn xạ ngay. Đó là vì bộ óc quen hoạt động, quen náo nhiệt. Hãy giữ cho lòng tĩnh, vắng lặng không bận rộn vào mọi chuyện vớ vẩn. Lúc đầu chưa làm chủ được ý nghĩ thì hãy nghĩ đến những gì đẹp đẽ, tinh khôi như một bông hoa, một dòng suối. Đó là bước đầu cho việc ngơi nghỉ.
Ảnh Minh Họa
Giáo sư Spalding buột miệng:

- Như thế đâu có gì khó khăn lắm. Đạo sĩ bật cười:

- ngơi nghỉ cần gì phải khó khăn, phiền toái. Khi giữ được xương sống thẳng và hít thở đều đặn, thì luồng chân khí sẽ lưu thông khắp cơ thể và từ đó sẽ điều chỉnh các chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân. Cách thứ hai là nằm ngửa trên mặt đất, chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai tay buông xuôi bên thân mình, mắt nhắm lại, để sức nặng toàn thân phân phối đều trên sàn gạch. Nên nhớ phải nằm trên sàn chứ không phải trên giường, nhất là giường nệm, vì giường mềm mại khiến cơ thể méo mó không đều. Hãy nằm cho thoải mái, không nên gắng thái quá, đầu óc phải thảnh thơi., không suy nghĩ hay mong mỏi điều gì. tư thế này sẽ xoa dịu hệ thần kinh, khiến nó lấy lại thể quân bình. Nên nhớ nền móng chính của Hatha Yoga dựa trên sự ngơi nghỉ, dưỡng sức chứ không phải là hành xác với các phong độ căn vặn kỳ cục.

- Nhưng Yoga có các phong độ đó nhưng?

- Vấn đề đứng ngồi với một phong độ đặc biệt trong một khoảng thời gian là không quan yếu, nhưng sự tập hợp ý chí để thi hành đúng tư thế đó sẽ xúc tiến những sức mạnh tiềm ẩn trong cơ thể con người. Những mãnh lực này là bí ẩn của

thiên nhiên, nó chỉ phát triển khi người luyện tập phải tập kèm theo một phương pháp thở (Khí công). phong độ giúp con người làm chủ giác quan, hơi thở giúp con người mở cửa vào thế giới ý thức. Nên nhớ tinh thần và thân xác luôn đi song đôi. chẳng thể có một tinh thần bạc nhược trong một thân xác tráng kiện, hay tinh thần sáng suốt trong một thể xác bệnh hoạn. Ở trình độ cao của Hatha Yoga thì hành giả sẽ phải tham thiền nhập định rất lâu, thế ngồi của thân xác là điều quan yếu vì nó giúp cho sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp hành giả tinh tấn, tăng cường ý chí…

- Nhưng tôi vẫn thắc mắc về các phong độ kỳ lạ, vặn thân hình của Yoga như chổng ngược đầu, vắt chân lên cổ.

- Bạn nên nhớ, trọng điểm bí hiểm của hệ thần kinh tản mác nhiều chỗ trong thân. Mọi phong độ có công dụng riêng, ảnh hưởng đến một bí huyệt nhất quyết. Nhờ khích động các bí huyệt đó mà ta có thể ảnh hưởng các bộ phận trong cơ thể, cũng như hoạt động của trí não. Các phong độ lạ thường chỉ dùng để khích động các bí huyệt mà thôi. ngoài ra không còn gì khác nữa. Bạn phải nhớ kỹ rằng ngoài các phong độ còn có phương pháp khí công nữa, chứ không phải chỉ vận động các bắp thịt mà thôi. Người phương Tây tập thể thao, vận động thể xác mạnh mẽ, tiêu phí sức lực để làm nảy nở bắp thịt. Người Á châu tin rằng chính cái sức mạnh ở bên trong mới điều khiển và chỉ huy các bắp thịt. Bạn cho rằng phương pháp chổng ngược chân lên trời (trồng cây chuối) là lố bịch ư? phong độ này giúp dồn máu xuống não. thường nhật máu được đưa lên não do sự co bóp của tim. Sự dị biệt ở chỗ để máu thiên nhiên dồn xuống não là rất có lợi cho những người làm việc nhiều bằng trí não; và tư thế này cũng giúp quả tim nghỉ ngơi, không phải cố kỉnh để đưa máu lên óc. Nhờ tim được nghỉ mà tránh được các chứng đau tim. Khi thực hiện các phong độ này phải cẩn thận, làm chậm rãi, từ từ, có ý thức, giữ vững phong độ trong một thời gian, không nên nuốm thái quá. Nên nhớ chìa khóa là ở sự nghỉ ngơi thư thả, chứ không phải làm hùng hục. Môn Yoga giúp thân tự động điều hòa trong sự yên tĩnh, thăng bằng, khác hẳn các lối tập thể thao co tay, múa chân ào ạt của người Âu. Làm thế tuy bắp thịt thân thể nảy nở nhưng thân thể náo động, có hại cho thần kinh.

Giáo sư Spalding lặng im không thốt nên lời nào, vớ những gì người đạo sĩ này nói ra đều hợp lý, rất khoa học, không hề có thuộc tính mê tín dị đoan như ông đã nghe các tu sĩ khác dốt nát hóa. Thông thường một người Âu vẫn xem thứ dân châu Á, xem họ như loại người chậm tiến, là sản phẩm của một xứ nóng bức, thiếu ăn, chắc phải sửng sốt khi thấy từ thời xưa người Ấn đã được giáo dục một cách tập thể dục tối tân, tinh tướng và khoa học như thế.

Đạo sĩ Ấn nhìn ông mỉm cười như đoán được ý nghĩ:

- Yoga là khoa học của vũ trụ, nó chẳng những chỉ vận dụng riêng đối với dân châu Á mà có thể áp dụng cho con người ở khắp nơi. Tôi chẳng thể đi sâu vào chi tiết nhưng dù sao duyên hội ngộ lần này cũng tốt đẹp. Tôi giúp ông bạn một chìa khóa bí truyền này. Luật thiên nhiên định rằng trung bình con người thở với số nhịp là 21.600 lần mỗi ngày. Hô hấp quá nhanh làm gia tăng nhịp độ nói trên và thu ngắn sự sống. Hô hấp chậm rãi, kéo dài, đều đặn là hà tiện sinh lực và kéo dài sự sống, đó là bí quyết khoa Khí công. Mỗi hơi thở hà tiện sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ giúp ta kéo dài sự sống. Các thức ăn có chất kích thích hay việc hút thuốc làm cho hơi thở dồn dập, giảm số lượng dưỡng khí vào phổi, dĩ nhiên làm ta giảm thọ nhanh. Có lẽ ông bạn còn ngờ? Khoa Yoga ý thức rất rõ sự liên can chặt đẹp giữa cơ quan hô hấp và tuần hoàn. Cả hai cơ quan này liên quan mật thiết với hệ thần kinh. Bộ tâm thần là chìa khóa vào cánh cửa tâm linh, do đó, hơi

thở chính là lối vào tinh thần. Nhưng hơi thở chỉ là sự diễn đạt trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn. Sức mạnh này mới là cột trụ của sinh hoạt thể xác, và chính cái sức mạnh vô hình vô ảnh tiềm tàng trong thân chúng ta mới đích thực điều khiển đời sống. Khi nó rời xác thân thì hơi thở ngừng lại và sự chết đến. Sự kiểm soát hơi thở giúp ta làm chủ một phần nào luồng sinh lực vô hình này. Khi việc làm chủ thân đạt đến mức cao, con người sẽ kiểm soát được sự hoạt động của các cơ quan trong thân như tim, gan, dạ dày, phổi…

- Làm sao có thể được, tim ngừng đập là chết rồi còn gì? – Giáo sư Spalding kêu lớn.

- Bạn không tin ư, được bạn hãy để tay lên ngực tôi.

Giáo sư Spalding để tay lên ngực đạo sĩ và đưa tay kia bắt mạch. Một sự rung động lạ thường xảy ra, nhịp đập của tim đạo sĩ từ từ chậm dần rồi ngưng hẳn. Đây là một mộng ảo? Giáo sư vội đưa tay xem đồng hồ, đúng một phút im lặng, rồi quả tim bỗng bắt đầu đập trở lại. Đạo sĩ mỉm cười giảng giải:

- hiện giờ thì ông tin rồi chứ? Có lẽ ông nghĩ rằng điều này phản khoa học, tôi xin lấy tỉ dụ sau để ông có thể kiểm chứng được. Con voi thở chậm hơn con khỉ, do đó nó sống lâu hơn. Quan sát lối hô hấp của loài vật như con rắn chẳng hạn, nó thở rất chậm nên sống lâu hơn con chó. Nếu nghiên cứu kỹ, bạn sẽ thấy sự can hệ nhiệm mầu giữa hơi thở và sự sống lâu. Một kẻ sống đời êm ả sống lâu hơn người có đời sống vội vã, náo nhiệt. Một số giống dơi ngủ suốt mùa đông. Chúng bám chân vào vách đá, ngưng thở nhiều tháng, và chỉ tỉnh giấc khi mùa xuân đến. Con gấu cũng ngủ suốt mùa đông như thế. Tại sao loài vật làm được mà loài người lại không làm được? Đó đâu phải phản khoa học hay phản thiên nhiên. Vì các nhà khoa học kết luận rằng điều này chẳng thể xảy ra nên không bao giờ họ tìm hiểu thêm nữa. Đối với người châu Á, bất cứ việc gì cũng có thể xảy ra và tự nhiên là ông thầy rất tốt.

- Nhưng như thế đâu có lợi gì, sống lâu thêm vài tháng, vài giờ…

Đạo sĩ mỉm cười một cách bí ẩn, giải đáp:

- Một ngày nào đó, bạn sẽ hiểu lời tôi nói. Tôi không thể giảng giải gì thêm lúc này. Bạn có tin rằng nếu tập luyện pháp môn này đến mức cao siêu, ta có thể thắng đoạt tử thần không? Bạn đồng ý rằng ngưng thở là chết, và nếu ta giữ được hơi thở thì ta bảo tàng được sự sống có đúng không?

- cố nhiên là như thế.

- Bạn thân mến, một đạo sư có thể cầm giữ hơi thở chẳng những trong nhiều tuần, nhiều tháng mà còn có thể trong nhiều năm, nhiều thế kỷ; tức là họ có thể kéo dài sự sống theo ý muốn có đúng không? Ông bạn đã đồng ý rằng hơi thở ở đâu tức là sự sống ở đó kia mà.

- Nhưng làm sao có ai giữ được lâu như thế?

- Khi bạn lên dãy Hy Mã Lạp Sơn, bạn sẽ gặp những người đó; và điều này không lạ thường như bạn nghĩ. Khoa Yoga chân truyền có thể đem lại nhiều quyền năng Bất ngờ, lạ lùng, nhưng đã mấy ai khổ công luyện tập. Trong thời buổi điên đảo bây chừ, con người mải mê trong danh lợi phù phiếm, các ảo tượng cuộc thế, làm gì có thời giờ nghĩ suy đến sinh hoạt tâm linh. Đó cũng là lý do những người thực sự

mong muốn một dạng linh tính thường ẩn mình nơi hoang vắng, các bậc đó không bao giờ phải đi tìm đồ đệ mà người tìm đạo phải đi kiếm các ngài…

Giáo sư Spalding thắc mắc:

- Nhưng sống lâu trong hoang vắng để làm gì chứ?

- Hiện giờ đầu óc bạn vẫn còn suy nghĩ như người Âu, nghĩa là lý luận theo một chiều. Bạn phải cởi bỏ các định kiến sẵn có thì mới mong học hỏi được những điều mới lạ. Một thời gian nữa bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói. hẳn nhiên, các bậc chân sư kéo dài đời sống vì những lý do chính đáng, cao cả, chứ đâu phải tham sống sợ chết như người thường. Trên dãy tuyết sơn có những vị đã sống cả trăm năm, có vị sống đến cả ngàn năm. cả thảy đều có những sứ mạng riêng nên họ giữ nguyên thể xác. Một đạo sĩ thấp kém như tôi không đủ kiến thức để có quan điểm. Tôi cho bạn biết trước một điều, bạn sẽ cầm về Anh móng tay của một vị Lạt Ma đã sống hơn bốn trăm năm.

- Liệu ông có thể cho chúng tôi biết làm cách nào để kéo dài đời sống như thế được?

- Có ba phương pháp kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là tập dượt tất các phong thái (Asana) cùng với môn khí công bí truyền cho thật thành thục tuyệt hảo. Phương pháp này chỉ có thể thực hiện dưới sự hướng dẫn của một vị danh sư đã có kinh nghiệm vì sai một ly đi một dặm, đó là chưa kể người tập phải có một nếp sống trong sáng, trong sạch hoàn toàn. Một ý niệm xấu khi thiền định có thể làm loạn động hơi thở đưa đến tình trạng “tẩu hỏa nhập ma”, điên loạn hoặc chết ngay. Phương pháp thứ hai là dùng dược chất, pha chế các loại thuốc đặc biệt, các loại cây cỏ hiếm hoi; phương pháp này cũng chỉ một thiểu số biết cách bào chế và chỉ truyền lại cho các môn sinh riêng. Phương pháp luyện đơn này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt vì nó có các hiệu quả chẳng thể lường được. Phương pháp thứ ba là lối mở các kinh kỳ bát mạch, sinh tử huyền quan rất khó giảng giải theo khoa học thực nghiệm.

Tôi chỉ có thể nói như thế, còn tin hay không là quyền của ông. Trong bộ não con người có một lỗ trống rất nhỏ nằm sâu bên trong, và có một nắp đậy bên ngoài. Nơi rốt cục của đốt xương sống là sào huyệt của luồng hỏa hầu Kundalini. Sự trụy lạc, trác táng làm tiêu hao sinh lực, khiến con người trở thành già nua, cỗi cằn. Trái lại, nếu biết kiểm soát, ta có thể tiện tặn sinh lực. Khi một người làm chủ hoàn toàn xác thân, họ sẽ kiểm soát được luồng hỏa hầu này. Chỉ những đạo sĩ Yogi thượng thặng mới dám tập dượt đến luồng hỏa hầu, khiến nó thức tỉnh đi ngược lên trên theo xương sống khai mở các bí huyệt, các trọng tâm quan trọng nằm dọc theo lịch trình. Khi mở được nắp đậy lỗ hổng ngay trong óc để luồng hỏa hầu Kundalini chui vào ngụ cư nơi đây, ta sẽ khai mở nhiều quyền năng, cải lão hoàn đồng, kéo dài sự sống. Điều khó khăn nhất là việc mở được cái nắp đậy trong não, việc này có khi cần sự trợ giúp của một danh sư sử dụng nội lực giúp người luyện đả thông kinh kỳ bách mạch. Việc này rất khó vì kẻ táo tợn luyện công dễ mất mạng như không. Người thành công có thể kéo dài sự sống như ý muốn và khi chết thể xác họ vẫn tươi tốt như khi còn sống, không hề hư hại…

Giáo sư Spalding im lặng. vơ những điều vị đạo sĩ tiết lậu đều thật lạ thường, ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Chắc chắn khoa sinh lý học không thể bằng lòng luồng sinh lực vô hình này. Có lẽ nó khởi hành từ trí tưởng tượng của các đạo sĩ chân chất, mê tín chăng? Có nên tin hay không?

Như đọc được ý nghĩ của giáo sư, đạo sĩ mỉm cười:

- Tôi biết ông bạn nghi vì những điều đó hoàn toàn trái với lý thuyết khoa học. Nhưng bạn hỡi, minh triết bao trùm mọi khoa học, nó là khoa học vũ trụ, so với môn khoa học thực nghiệm thì khoa học thực nghiệm chỉ là một mảnh vụn.

Một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến vấn đề tôi vừa diễn đạt, lúc đó tình trạng hiểu biết của nhân loại đã tiến hóa cao hơn hiện giờ, nên có thể hiểu biết một cách xác thực hơn. Bạn nên hiểu luật vũ trụ định rằng khoa học thực nghiệm phải xoành xoạch đi song song với sự tiến hóa của nhân loại. Vài trăm năm trước có phải khoa học lúc đó thật là ấu trĩ so với hiện hay không? Nếu đi ngược dòng lịch sử, bạn có thấy rõ mức tiến hóa của khoa học và nhân loại luôn luôn ảnh hưởng và bổ sung cho nhau không? Thời tiền sử, nói về thuyết nguyên tử là điều vô lý và có nói cũng chẳng ai hiểu. Thời trung thế kỉ, nếu có giảng giải về không gian vũ trụ thì sẽ bị kết án là phù thủy. Lịch sử châu Âu đã chứng minh rằng những con người thông minh quá đều bị chế nhạo là điên khùng rồi bị thiêu sống. Đó cũng là lý do các bậc danh sư không hề xuất hiện và các phương pháp tu hành được giữ giàng cẩn thận, bí hiểm, chỉ những người tâm thành mới được dạy dỗ.

- Nhưng có cách nào một người Âu như tôi được truyền dạy những điều này không?

- Được lắm chứ, nhưng liệu bạn có sẵn sàng tự chốn phồn hoa đô hội để ẩn mình nơi hoang vu, tịch mịch mà tu học không?

- Điều này… cũng được, nhưng tôi phải thu xếp công việc đã…

- Bạn có sẵn sàng trường đoản cú mọi hoạt động vui thú thế tục để hoàn toàn dành thời kì cho việc thực hiện pháp môn Yoga – không phải vài ngày, vài giờ, mà trọn đời.

- Nhưng đời nào trọn đời chỉ có làm thế thôi… Có lẽ để khi tôi già đã…

Đạo sĩ bật cười:

- Bạn mến, Yoga không phải một trò giải trí trong lúc nhàn rỗi hoặc khi tuổi già bóng xế. Người Âu các ông sao ham hoạt động và tham lam quá vậy?

Giáo sư Spalding đỏ mặt cãi:

- Nhưng tập Yoga để làm gì? Kéo dài đời sống khổ hạnh thêm vài năm có ích lợi gì đâu?

Đạo sĩ nghiêm mặt:

- Ai bảo mục đích Yoga là cầu sống lâu? Sống khổ hạnh mà không có ý nghĩa để làm gì? phần đông các đạo sĩ luyện thân thể cường tráng sống lâu hơn người khác chưa thấu hiểu được mục đích tối hậu. Bạn nghĩ các bậc chân sư chỉ lo sống thêm ít lâu thôi hay sao? cõi tục thường chỉ hiểu một chiều, và đi ngay đến kết luận. Chinh phục thân xác chỉ là bước đầu đưa con người đến việc chinh phục ý thức. Giữ cho mình không hành động xấu thì dễ nhưng giữ cho tâm không nghĩ xấu mới khó khăn gấp bội, và đòi hỏi cố kỉnh phi thường. Đời người quá ngắn, việc tập luyện kiểm soát thể xác đã đòi hỏi nhiều năm, không đủ để tu tập tinh thần. Do đó, các đạo sĩ mới kéo dài thêm đời sống. Môn Hatha Yoga như tôi nói chỉ nhằm mục

đích làm chủ thể xác, khi thành công phải tu tập thêm Raja Yoga nhằm làm chủ ý thức nữa chứ. Hatha

Yoga dọn đường cho Raja Yoga…

- Thế vì sao ta không tập Raja Yoga ngay có hơn không? Đạo sĩ lại bật cười:

- Người Âu thật vội vã, muốn đi xa phải đi từ từ, phải tập đi trước khi tập chạy chứ. Đốt thời đoạn là bảo đảm thất bại. Khi thân xác chưa làm chủ nổi thì làm sao đã đòi làm chủ tinh thần…

Giáo sư Spalding nóng vội:

- Nhưng làm sao tôi có thể học môn Raja Yoga, ông có thể chỉ cho tôi thêm về môn này không?

- Này ông bạn, việc gì cũng có duyên phận, nếu đủ duyên bạn sẽ gặp thầy hay bạn giỏi. Hãy có một lòng khao khát chân lý, rồi định mệnh sẽ dẫn dắt bạn.

- Nhưng tôi đâu quen biết ai, các bậc chân sư đâu có tên trong niên giám điện thoại. Tôi làm sao gặp được các ngài?

Đạo sĩ mỉm cười một cách bí ẩn:

- Hãy vững niềm tin, lòng thèm khát cầu đạo có một lực hút mạnh mẽ và kiên cố sẽ được đáp ứng. “Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở, hãy tìm rồi sẽ gặp”, bạn quên rồi sao?

Giáo sư Spalding giật mình, một lần nữa câu nói thân thuộc trong Kinh Thánh lại được nhấc bởi một đạo sĩ xứ Ấn. Ông bối rối không biết nói gì. Đạo sĩ mỉm cười nói tiếp:

- Người Âu có tính tò mò, cái gì cũng muốn biết. thực hành mới là quan yếu, chứ biết suông để làm gì? Phương pháp rèn luyện ý thức cũng giống như rèn luyện thân xác thôi. Nếu luyện tập thể thao đều đặn thì bắp thịt sẽ nảy nở, rắn chắc; thì rèn luyện ý thức cũng vậy. Nhiều người có các tính xấu như ích kỷ, tham lam, bần tiện, đa nghi… Do đó, họ cư xử không tốt với người khác. phần lớn cho rằng đó là bản tính tự nhiên, không đổi được. Thật ra, nếu muốn thì ta vẫn có thể sửa đổi mọi tính toán. Nếu việc tập luyện đúng cách làm bắp thịt nở nang thì việc làm chủ ý thức sẽ tạo các đức hạnh cấp thiết. Kinh Rig Veda đã ghi rõ: “Kẻ nào quan niệm sự tiến hóa một cách rõ ràng chuẩn xác sẽ tinh thần được lợi quyền và hạnh phúc của mình. Muốn trở thành một bậc toàn thiện, ta phải có các tiết hạnh và sự anh dũng. Người nào muốn cải thiện từng lớp phải biết cải thiện mình trước đã. Phải biết quên quyền lợi riêng để chuyên chú vào phận sự chung. Phải hiểu rằng các dịp xúc tiếp với mọi người đều tạo cho ta nhịp phụng sự. Phụng sự mọi người chính là phụng sự Thượng đế”. Những người nhiệt tâm sửa mình phải tinh thần quyền năng vô bờ của tư tưởng vì hành động nảy sinh từ tư tưởng. Người tìm đạo phải biết kiểm soát tư tưởng của mình và dùng chúng một cách hợp lý và bác ái. Làm chủ tinh thần là mục đích của môn Raja Yoga. trở lực lớn nhất của những người luyện tâm rèn chí là sự tự thị và óc chỉ trích. Với óc chỉ trích, con người công kích hết thảy; họ sẵn sàng bôi nhọ mọi tiết hạnh, tìm sự sai quấy ở khắp mọi người. Người tu pháp Raja Yoga phải có thái độ trái lại, phải tìm thấy điều thiện ở tuốt luốt mọi người và nhìn thấy mọi sự đều có cái lý riêng của nó. Có thế họ mới giúp mình và giúp người khác được. trở lực thứ hai là sự nông nổi, làm điều này chưa xong đã nhảy sang việc khác. Vừa bắt tay vào việc đã

mong thấy kết quả, và nếu kết quả chưa như ý muốn liền bỏ điều đang đeo đuổi để nhảy sang một điều khác. chung cục không có điều gì xong cả. Thái độ này không thể ưng ý được. Sự quyết tâm kiên trì là điều cấp thiết để làm chủ tư tưởng. Dĩ nhiên, kiếp người ngắn ngủi, không ai có thể trừ hết thói hư tật xấu trong một kiếp, do đó việc tu hành cũng kéo dài trong nhiều kiếp sống. Khi đó họ sẽ ý thức các sự kiện vĩ đại của sự sống hết sức và rời bỏ cái bản ngã để hòa mình vào dòng tiến hóa của vũ trụ, hòa nhập với Chân Ngã văng mạng.

- Như thế môn này sẽ giúp ta trở nên một vị thánh?

- Này ông bạn, đừng nên kết luận vội. Con đường dẫn đến quả vị tiên thánh đâu phải chỉ có một. Có nhiều con đường đưa đến chân lý và không đường nào hơn đường nào. Đây là một điều vô cùng quan yếu mà bạn phải ghi nhớ mãi mãi. Không một con đường nào hơn đường nào, dù là Hatha Yoga hay Raja Yoga, hoặc môn gì chăng nữa. Tại sao ta cứ nghĩ pháp môn này mới hay, đạo kia mới tốt? Không một đường nào có thể là độc nhất vô nhị được. Tốt hơn cả là hãy tự biết mình. Thay vì tìm một chân lý tuyệt đối, hãy tìm sự tuyệt đối nơi mình; vì chân lý để sống chứ không phải để dạy.

Giáo sư Spalding lặng im không thốt lên câu nào. Lời nói của đạo sĩ như có một sức mạnh vang dội trong lòng ông. Các định kiến từ trước bỗng tan biến hết và ông cảm thấy xúc động hết sức.

Đạo sĩ mỉm cười:

- Này ông bạn, không một vị thánh nào vỗ ngực xưng danh mà chỉ có những kẻ còn u mê trong bản ngã mới thiết tha đến danh vọng, địa vị. Khi họ đeo đầy mình những chức tước, thì làm sao họ đánh tháo được? Thượng đế ban cho ta trí sáng ý để nhận xét thì ta phải biết phân biệt chứ. Hãy nhìn thành Benares với cả trăm đền thờ khác nhau, hàng ngàn giáo sĩ, tông phái. Ai cũng tự nhận rằng phe mình gần Thượng đế nhất. vì sao suốt hai năm nay phái bộ các ông đã đi khắp nơi, thăm viếng mọi chỗ mà vẫn không thỏa mãn? Phải chăng vì sự hiểu biết phân biệt của các ông đã cao, không chấp thuận sự mê tín, mù quáng nữa. Kinh Gita nói rõ: “Thầy nào, trò nấy. Một tu sĩ chân chính không có đệ tử bất hảo, và một đồ đệ sáng ý không tìm thầy bất lương”. Luật thiên nhiên đã dạy: “Đồng thanh ứng, đồng khí tương cầu”. Một người sáng suốt đâu thể đi theo kẻ u mê… Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm chủ chính mình để cầu giải thoát chứ đâu phải lo lôi kéo đệ tử cho đông, xây cất các đền đài cho đẹp, để kiêu hãnh về các thành tựu này. Như thế là khoa trương bản ngã, tự thị ngã mạn, làm sao còn giải thoát được. Bạn hãy dùng lý trí và trực quan để phân biệt những người này, nếu bạn thiết tha mong cầu chân lý thì kiên cố điều bạn ước mong sẽ thành sự thật. Chúng ta gặp nhau thế này cũng đã quá đủ, đã đến lúc tôi phải trở về am thất.

- Nhưng làm sao tôi sẽ gặp lại ông… tôi chưa biết tên ông.

- Hãy gọi tôi là Bramananda.

Giáo sư Spalding lặng yên nhìn vị đạo sĩ khuất dần qua hàng cây rậm rạp. Bóng chiều từ từ rơi xuống trên sông Hằng.

Chương 3KHOA HỌC THỰC NGHIỆM VÀ KHOA HỌC CHIÊM TINH BÍ TRUYỀN

Lawrence Keymakers là một người Anh sung túc, sống tại Benares nhiều năm. Ông làm chủ nhiều xí nghiệp lớn và có tri thức rất rộng về xứ sở Ấn Độ. lái buôn Lawrence trọng đãi phái bộ trong tòa vi la rộng, xây cất bên bờ sông Hằng.

Sau câu chuyện xã giao, giáo sư Allen lên tiếng:

- Ông nghĩ sao về những điều người Ấn gọi là Minh Triết linh và những sự kiện mê tín dị đoan xảy ra ngoài chợ?

Lawrence lắc đầu:

- Xứ này vẫn có những trò biểu diễn như thế, nhưng ngoài những cái mà ta cho là ảo thuật hoặc mê tín dị đoan còn ẩn núp những ý nghĩa tâm linh rất ít ai biết được. Muốn tìm hiểu phải nghiên cứu cặn kẽ chứ không thể kết luận hấp tấp…

Giáo sư Oliver bật cười:

- Ông cho rằng những trò ngồi bàn đinh, thổi kèn gọi rắn còn ẩn giấu những ý nghĩa linh tính hay sao?

- Tùy tâm trạng của mình mà xét đoán sự kiện, nếu ta nhìn nó dưới cặp mắt của người Âu thì ta sẽ chỉ thấy nó là một trò múa rối không hơn không kém, nhưng nếu ta gạt bỏ các định kiến, biết đâu ta chẳng học hỏi thêm được nhiều điều.

Giáo sư Allen châm biếm:

- Ông ở Ấn đã lâu, chắc đã học hỏi được nhiều điều mới lạ…

Lawrence mỉm cười:

- Đúng thế, tôi đã học hỏi rất nhiều và điều trước tiên tôi học được là sự khiêm tốn. Chỉ có sự khiêm tốn mới giúp ta học hỏi thêm những điều mới lạ. Các bạn hãy nhìn ly nước đầy trên tay tôi đây, nếu tôi tiếp chuyện rót thêm thì nước sẽ tràn ra ngoài. Trừ khi tôi đổ bớt nước trong ly đi thì tôi mới rót thêm nước vào được. kiến thức cũng thế, chỉ khi ta khiêm tốn gạt bỏ những thành kiến sẵn có, ta mới hấp thu thêm được những điều mới lạ. Các bạn muốn nghiên cứu học hỏi những minh triết của xứ Ấn, nhưng vẫn giữ thành kiến của người Âu, khinh bỉ mọi sự thì có khác chi ly nước đầy, làm sao rót thêm nước vào được nữa?

Mọi người im lặng, câu nói thẳng của vị doanh nhân ít nhiều đã chạm tự ái của những người trong phái bộ. Dù sao họ cũng là những nhà khoa học nổi danh nhất của hoàng phái Anh, lúc nào cũng được nể vì, kính trọng. Để phá tan bầu không khí nặng nề, giáo sư Mortimer chỉ một hình vẽ lạ thường treo trên tường:

- Đây là hình vẽ gì vậy? Trông như các tinh tú thì phải…?

- Bạn nói đúng, đó là lá số tử vi của tôi. Mọi người bật cười, giáo sư Allen hí hước:

- Lá số tử vi? Lawrence thân mến, ông đã trở nên người Ấn hồi nào vậy?

Lawrence nghiêm mặt:

- Đây là một món quà vô giá của Sudeih Babu, nhà chiêm tinh giỏi nhất Ấn Độ.

Cả phái đoàn phá lên cười, vì nghĩ đến những gã thầy bói ngồi chồm hỗm bên lề đường. Khắp xứ Ấn, chỗ nào cũng có thầy tướng thầy tướng kiếm ăn nhờ sự mê tín của quần chúng. #. Đồ nghề của họ là một vài cuốn sách rếch rác, vài niên lịch lạ thường. Họ tự hào có thể biết rõ số sang hèn của mọi người, nhưng nghe đâu lại không biết gì về số phận của chính họ.

Lawrence lắc đầu:

- Sudeih là một vị thầy, một người thuộc giai cấp thượng lưu quý phái chứ không phải loại thầy tướng hạ cấp. Ông nghiên cứu tử vi từ nhỏ và có thể biết trước nhiều điều quan trọng. Các bạn muốn khảo cứu hiện tượng huyền bí sao không đến gặp ông. Biết đâu ông ấy có thể giúp các bạn. Sudeih có lề thói là không bao giờ tiếp khách lạ, nhưng ông ấy là bạn thâm giao của tôi, tôi sẽ hết lòng giới thiệu.

Giáo sư Allen lắc đầu:

- Chúng tôi muốn nghiên cứu nền văn minh xứ Ấn, chứ không phải xem vận mạng hên xui tốt xấu.

Lawrence mỉm cười bí ẩn:

- Như thế các bạn lại càng phải đến gặp nhà chiêm tinh này. Các bạn nên nhớ là dù các bạn có muốn, chưa chắc Sudeih đã chịu tiếp các bạn. Chính tiểu vương xứ Punjab đến xin yết kiến ba ngày ba đêm mà Sudeih cũng không thèm tiếp…

Nhà chiêm tinh ở một vi la rộng lớn, quanh nhà trồng rất nhiều cây cảnh. Đã có hẹn trước nên gia nô mời tất mọi người vào trong phòng khách. Đó là một căn phòng rất lớn, trang hoàng sang như phòng một ông hoàng.

Sudeih Babu là một người Ấn gầy gò nhỏ bé nhưng có đôi mắt sáng ngời, chứng tỏ một đời sống nội tâm dồi dào. Ông chuyển di khôn xiết chậm rãi như một con mèo và nói bằng một thứ tiếng Anh rất đúng giọng và lịch sự:

- Keymakers cho biết các ông muốn tìm hiểu về khoa chiêm tinh?

Giáo sư Oliver nói ngay:

- Xin ông hiểu cho, chúng tôi muốn sưu tầm các hiện tượng kì bí chứ không hoàn toàn tin về môn này.

Babu im lặng nhìn mọi người, lãnh đạm:

- Nếu các ông muốn, tôi có thể lấy lá số tử vi cho các ông. Giáo sư Oliver nghi ngờ:

- Xin ông đừng dông dài về tương lai và may rủi. Hãy nói thử về kí vãng của tôi xem sao.

Babu gật đầu hỏi giáo sư Oliver vài câu về ngày sinh rồi ông phóng bút vẽ các ký hiệu lạ thường lên một tờ giấy. Ông chậm rãi tuyên bố:

- Ông sinh trưởng trong một gia đình doanh nhân. Từ nhỏ ông nuôi mộng hải hồ thích du lịch, nhưng gia đình ông nghiêm khắc ngăn cấm. xuân đường ông muốn con mình phải theo học về thương nghiệp tại Oxford để kế nghiệp. Tuy nhiên, ông lại có năng khiếu về khoa học, nên chỉ một thời gian ngắn ông đã chuyển qua ngành Vật lý học. thánh sư giận quá, khăng khăng không viện trợ gì ông nữa. Gia tài sự nghiệp truyền cho các em ông. Đến khi ông trở thành một nhà khoa học lỗi lạc của tôn thất thì ông cha lại bắt ông trở về đi vào con đường chính trị. Dưới sức ép gia đình, ông thành hôn với một thiếu nữ dòng dõi quý tộc. Cuộc hôn nhân không mang lại hạnh phúc và ông vùi đầu trong phòng thử nghiệm để tìm quên. Người vợ quen thân giao dịch rộng đã phá nát tài sản sự nghiệp, và còn ngoại tình nữa. thánh sư buồn phiền, thất vọng tốn. Ông chịu đựng người vợ suốt 18 năm cho đến khi bà ta khuất. Sau khi thu xếp mọi việc, ông nhập phái bộ với mục đích rời xa Luân Đôn và thỏa mãn giấc mộng hải hồ.

Giáo sư Oliver ngồi im không thốt lên một tiếng, chứng tỏ những điều Babu nói không sai. Một không khí nặng nề trùm căn phòng. Babu thờ ơ tiếp:

- Ông có muốn tôi nói thêm chi tiết hay nói về tương lai nữa không?

Giáo sư Oliver lắc đầu xua tay, mày mặt tái nhợt như người vừa trải qua một điều gì kinh khủng. Giáo sư lên tiếng:

- Nhưng vì sao các tinh tú ở xa lại ảnh hưởng đến từng cá nhân chủ nghĩa được?

Babu thung dung đáp:

- Nếu tinh tú ở xa quá thì khoa học thực nghiệm giảng giải thế nào về ảnh hưởng của mặt trăng đối với nước thủy triều lên xuống hoặc chu kỳ kinh nguyệt trong thân nữ giới?

- Nhưng nếu tôi bị tai nạn thì điều đó hiệp gì đến các hành tinh!

Babu lắc đầu mỉm cười:

- Các ông nên nghĩ thế này, tinh tú chỉ là tượng trưng mà thôi. Tự nó không hiệp gì đến chúng ta hết, mà chính cái quá khứ của ta đã ảnh hưởng đến đời sống hiện tại. Tinh tú chỉ đề đạt lại ảnh hưởng này mà thôi. Không ai có thể hiểu khoa chiêm tinh nếu họ không tin luật Luân Hồi. Con người chết và tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Định mệnh của y theo dõi và ảnh hưởng lên đời sống của y theo luật Nhân Quả. Nếu ta không tin con người chết đi và đầu thai lại để học hỏi, để tiến hóa, để trở thành một người toàn thiện, thì mọi sự đều là tình cờ hay sao? Một Thượng đế công bình, nhân ái dễ thường dung túng điều này? Khi ta chết, thân xác hư thối tan rã nhưng tính toán, dục vọng, ý chí vẫn còn nguyên; cho đến khi ta đầu thai vào một kiếp sống mới thì những tính này sẽ trở thành tính cách của kiếp sau. Các hành tinh chỉ là tấm gương ghi nhận các duyên cớ này và

phản ánh trở lại. Bất cứ một hành động nào cũng tạo nên một căn nguyên dù xấu hay tốt, ví như ta ném một trái bóng lên giò. sớm muộn gì nó cũng rơi xuống vì trọng lượng và ảnh hưởng của sức hút trái đất, nhưng đến khi nào nó rơi xuống thì còn tùy sức ném của ta mạnh yếu ra sao. Khoa chiêm tinh nghiên cứu các năng lượng vũ trụ này để đoán được khi nào cái căn do trước sẽ trở lại.

Babu lặng im một lúc và thong thả giảng giải thêm:

- Trước khi đi xa hơn, tôi muốn các ông hiểu lịch sử chiêm tinh để có một cái nhìn thật đúng đắn. Từ ngàn xưa, chiêm tinh học vẫn được coi là một khoa học quan yếu. Chiêm tinh gia có địa vị cao đứng thứ hai, chỉ sau giáo sĩ mà thôi. Đối tượng của khoa chiêm tinh là vũ trụ. Tiếc thay phần này đã bị thất truyền, chỉ còn phần nhỏ nói về sự liên tưởng giữa con người và các vì tinh tú là còn được lưu truyền đến nay và được xem là khoa bói toán. Khoa chiêm tinh có từ lúc nào không ai biết, nhưng hiền triết Bhrigu đã truyền dạy các môn sinh của ông vào khoảng 6.000 năm trước dựa vào bộ sách Brahma Chinta do chính ông soạn ra. Bhrigu có bốn đồ đệ. Người thứ nhất rất giỏi về khoa học đã đi sang Ba Tư (Iran) lập nghiệp, từ đó khoa chiêm tinh đi về hướng Tây và ảnh hưởng đến Hy Lạp và La Mã sau này. Người thứ hai rất giỏi về triết học đi về phương Đông, sang truyền bá ở Trung Hoa. Người thứ ba thích nghiên cứu những hiện tượng siêu hình đã lên Tuyết Sơn nhập thất và sau truyền môn này cho dân chúng Tây Tạng.

Người thứ tư ở lại xứ Ấn và làm đến chức quốc sư. Bộ sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo cất trong cung điện. Sau này, các hoàng tử tranh cướp ngôi vua đã giành nhau bộ sách quý. Sau mấy chục năm chinh chiến, bộ sách bị phân chia, mỗi ông hoàng giữ một mảnh, và từ đó khoa chiêm tinh bị thất truyền. Các mảnh vụn đã được các thầy bói sưu tầm, biên chép lại và dùng nó kiếm ăn; nhưng họ chỉ nắm được một đôi điều cốt lõi chứ không sao hiểu hết. Như các ông thấy, căn nhà này rất lớn, gồm có 49 phòng, mỗi phòng đều chứa đầy các sách vở do tôi sưu tầm. sờ soạng gia tài sự nghiệp của tôi đều được dùng để sưu tầm các sách cổ…

Tôi xuất thân từ một gia đình hoàng tộc nhưng tôi chỉ say mê khoa chiêm tinh. Tôi bỏ ra mấy chục năm nghiên cứu, theo học các nhà chiêm tinh nức danh cho đến khi sưu tầm được bộ Brahma Chinta. hẳn nhiên, bộ sách này nguyên bản có đến mấy ngàn trang nhưng tôi chỉ sưu tầm được có vài trăm trang và tốn gần 20 năm để nghiên cứu nó.

Babu mỉm cười nhìn giáo sư Oliver:

- Ngài Oliver thân mến, lá số tôi lấy cho ông cho thấy ông rất khác thường so với người Âu. Tin hay không tùy ý ông, đúng hay sai chỉ ông mới biết, nhưng tôi muốn nói thêm rằng giờ các nghiệp quả đã trả xong, đời ông đã bước vào một khúc quanh quan trọng. Lá số cho thấy ông đã đến bên thềm Đạo và sắp được sự dìu dắt của một hiền giả.

Giáo sư Oliver cảm động siết chặt đôi tay gầy đét của nhà chiêm tinh. Toàn thể phái đoàn cũng xúc động không kém. Khi trước họ đã nghi ngờ khoa bói toán, nhưng sự kiện vừa xảy ra đã đổi thay toàn bộ. Không ngờ đâu giáo sư Oliver lại có một đời sống cá nhân xấu số như thế.

Babu đưa phái bộ đi xem những căn phòng chứa sách với những tủ lớn chứa đựng hàng ngàn cuốn sách cổ. Giáo sư Mortimer, một nhà khảo cổ học của trường Harvard đã phải sửng sốt trước kho tàng sách vở vô giá này. Có những bộ sách

viết trên giấy papyrus cả ngàn năm trước, xen lẫn các tài liệu khắc trên gỗ vào thế kỷ thứ 6. Cả phái bộ có cảm nghĩ như phần nhiều kho Minh triết xứ Ấn đều tụ hợp nơi đây. Giáo sư Mortimer lên tiếng:

- Kho sách vở này nói về những gì vậy?

- Đó là những sách về vấn đề tôn giáo, Minh triết cổ truyền, Triết học Ấn Độ.

- Như thế ông cũng là một triết gia? Babu mỉm cười:

- Một người không hiểu về triết lý sẽ chỉ là một hạng chiêm tinh tồi hay thầy bói hạ cấp.

- Ông có hấp thụ môn đồ không?

- Có rất nhiều người đến xin tôi dạy bảo nhưng tôi từ chối vì thấy họ không đủ thiên vị để lĩnh hội hay không đủ ý chí để đi đến cùng. Tôi nghĩ mình chưa đủ sức làm thầy ai hết mà chỉ là một người mê say nghiên cứu, cũng như các ông là những nhà khoa học say mê tri thức khoa học.

- Nhưng ông cũng dùng chiêm tinh để hướng dẫn đời mình chứ? Ông có thể xem được quá vãng vị lai kia mà.

Babu lắc đầu:

- chẳng đâu vào đâu, tôi đã tìm thấy ánh sáng Chân Lý, và không cần đến khoa chiêm tinh nữa. Khoa học này chỉ bổ ích cho những kẻ còn lần mò trong bóng tối. Tôi đã hoàn toàn trao trọn đời mình vào tay Thượng đế (Brahman). Không còn lo nghĩ, ưu phiền gì về tương lai nữa. Bất cứ điều gì xảy ra tôi cũng chấp nhận như ý muốn của Ngài.

- Nếu ông bị kẻ hung tợn hãm hại làm lâm nguy tính mạng thì ông có cho đó là thiên ý không? Ông sẽ làm gì để tự vệ chứ?

- Tôi biết rằng trong khi khẩn chỉ cần nguyện cầu là đủ. nguyện cầu là cần thiết vì lo âu chẳng ích gì. Nhiều khi tôi gặp khó khăn, lúc đó tôi ý thức hơn bao giờ hết sự trợ giúp của Thượng đế. Các bạn có biết rằng tôi đã xé bỏ lá số tử vi của mình từ khi tìm thấy ánh sáng Chân Lý. Tôi tin chắc rằng con người có thể cải tạo tinh thần để hòa hợp với Thượng đế, còn các việc xảy ra do hậu quả của kí vãng ta không thể thoát được thì lo lắng hữu dụng gì?

Ý niệm về Thượng đế là điều phái bộ luôn luôn nghe nói đến, người dân châu Á có một tinh thần đạo rất mạnh, tôn sùng Thượng đế quá nhiệt thành. Họ đâu hiểu rằng người Âu vốn có óc hoài nghi, thường thay thế cái đức tin đơn giản bằng cái lý trí phức tạp. Làm sao họ có thể hiểu rằng Thượng đế chỉ là một quan niệm, một giả thuyết cũng như trăm ngàn giả thuyết khác, nghĩa là cần phải chứng minh cụ thể.

Babu mỉm cười như đọc được ý nghĩ của mọi người:

- Này các bạn, cái lý trí kiêu ngạo tự đại của con người không hữu dụng gì cả. Chỉ khi nào họ đạt đến trạng thái lặng yên của tâm hồn, họ mới ý thức được các luật kì bí của vũ trụ và sự nhỏ bé của con người. Khi tách khỏi dạng u mê của lý trí, họ mới ý thức sự an lạc tuyệt trần khi hòa hợp với Thượng đế.

Giáo sư Allen lắc đầu:

- Tại sao ông không nghĩ rằng đó là một ảo tượng? Một sự hình dung?

Babu bật cười:

- Này các bạn, một bà mẹ sinh con có khi nào lại ngờ rằng đứa con đó không có thật. Khi hồi ức lúc lâm bồn, có khi nào bà ấy cho rằng đó chỉ là một sự tự kỷ ám thị? Khi nhìn đứa con mỗi ngày càng khôn lớn, làm sao bà mẹ lại nghĩ rằng đứa bé không hiện hữu? Sự giác ngộ linh tính là một biến cố khôn xiết quan trọng trong đời người mà không ai có thể quên được, vì từ đó con người hoàn toàn thay đổi, trở thành một người mới.

Babu đưa mắt nhìn một lượt cả phái đoàn, ắt đều là những giáo sư, nhà khoa học tiếng tăm nhất… Ông mỉm cười tuyên bố:

- Chúng ta chỉ mới ở vào buổi bình minh của khoa học, nhưng mỗi khám phá mới, mỗi tri thức mới, đều đem lại cho chúng ta một bằng cớ rằng, vũ trụ này là công trình của một đấng hóa công. Hãy lấy một ví dụ toán học cho dễ hiểu. Nếu ta bỏ vào túi 10 thẻ nhỏ, mỗi thẻ có ghi từ số 1 đến số 10, và tuần tự rút ra từng cái một. Sau khi rút xong ta lại bỏ thẻ vào túi, trộn đều và rút ra lần nữa. Làm sao ta có thể rút lần lượt từ số 1 đến số 10? Theo toán học, ta phải rút mười lần, mới có một lần rút được thẻ mang số 1. Phải rút 100 lần mới có một lần rút được số 1 và 2. Phải rút 1000 lần mới được số 1, 2, 3 liên tục. Nếu muốn rút theo thứ tự từ 1 đến 10, thì trường hợp đặc biệt này chỉ có thể xảy ra một lần trong mười tỷ lần, có đúng không? Nếu áp dụng toán học vào các điều kiện tạo ra đời sống ở quả đất này, thì ta thấy nguyên lý ngẫu nhiên không sao hội đủ các điều kiện cấp thiết. Vậy thì ai đã tạo ra nó? trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1.600 cây số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu nó quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 và cố nhiên sức nóng của dữ cũng gia tăng gấp 10 lần. Thế thì cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết còn gì. Nếu cái gì chống lại được sức nóng thì cũng chết lạnh vì đêm cũng dài ra gấp 10 và độ lạnh cũng tăng lên gấp 10 lần kia mà. Ai đã làm địa cầu quay trong một điều kiện tốt đẹp như thế? dữ là nguồn sống của quả đất phải không? ác nóng khoảng 5.5000C. Quả trái đất ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá mà cũng không gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời. Nếu sức nóng màng tang gia tăng một chút, ta sẽ chết thiêu, và trái lại nếu sức nóng mặt trời giảm đi một chút, ta sẽ chết rét. Tại sao địa cầu nằm ở điều kiện thuận lợi như vậy? Trục trái đất nghiêng theo một tọa độ là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không nghiêng theo bên nào thì sẽ không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đông thành băng giá cả. Mặt trăng là một vệ tinh của địa cầu, điều khiển thủy triều biển cả. Nếu nó không cách xa trái đất 380.000 cây số mà xích lại gần hơn 80.000 cây số thì một cuộc hồng thủy sẽ xảy ra. Nước sẽ bị sức hút dâng lên ngập thảy các đất liền mỗi ngày hai lần. Tóm lại, vớ sự sống trên mặt trái đất sẽ biến mất, nếu các điều kiện hiện tại này méo mó đi một ly. Nếu nói rằng đời sống chỉ là một sự ngẫu nhiên thì trong tỷ tỷ lần may ra mới có một điều kiện tốt đẹp hoàn toàn để có được sự sống như thế.

Babu quay sang nhìn giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của trường Harvard:

- Nếu toán học xem ra có vẻ trừu tượng quá, hãy thử quan sát thiên nhiên dưới cái nhìn của khoa sinh vật học xem sao. Ta thấy tạo hóa rất chu đáo hiện diện trong khả năng sinh tồn của mọi sinh vật. Sự sống không có trọng lượng hay chiều cao mà mạnh mẽ làm sao. Bạn hãy nhìn một rễ cây non nớt, yếu mềm, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục không khí, đất, nước. Nó cai trị mọi yếu tố, nó bắt buộc vật chất tan rã rồi lại kết hợp thành các hình

thể mới. Sự sống là nhà điêu khắc nặn thành những hình thể mới lạ, là họa sĩ vẽ những cảnh vật tự nhiên tô điểm cho tạo hóa. Sự sống cũng là nhạc sĩ dạy chim hót thánh thót, dạy sâu bọ ngân nga, là nhà hóa học chế ra các hương thơm, quả ngọt. Sự sống từ các loài cây cỏ thu lấy thán khí (CO2) biến thành dưỡng khí (O2) nuôi muôn loài. Hãy nhìn những giọt chất nguyên sinh (protoplasm) trong suốt gần như vô hình, mắt ta chẳng thể nhìn thấy, vậy mà nó có thể chuyển động theo ánh sáng và sức nóng của màng tang. Chính cái tế bào trơ trọi này chứa mầm sống của muôn loài, và là nguồn cội của toàn sự sống theo khoa học thực nghiệm. Tự nó không tạo ra sự sống vậy thì sự sống ở đâu đã đến. Này các ông bạn, giống cá hồi sinh ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh quán, nó bơi một mạch đâu hề đo đắn lừng khừng. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác, nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một cách vững chắc như vậy? Loài lươn biển cũng thế, khi trưởng thành, chúng rời nơi sinh sống từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi trên thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermuda. Muốn đến đây, một con lươn châu Âu phải đi gần 4.000 cây số, lươn châu Á phải đi xa hơn, có khi gần 8.000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết. Các con lươn con sinh ra tại đây không biết gì về nguyên quán mà vẫn trở về quê hương xa xăm của bác mẹ chúng, biết tìm về một cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Indonesia. Giống nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn Độ và một con lươn Thái Lan không bao giờ đi lạc sang châu Phi. Ai đã ban cho loài lươn sự nhận biết phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên con đường phiêu du ngàn dặm như vậy? kiên cố chẳng thể do tình cờ phải không các bạn?

Toàn thể phái bộ sửng sốt trước tri thức quảng bác của nhà chiêm tinh gầy gò, bé nhỏ này. Không ai ngờ một xứ chậm tiến như Ấn Độ lại có một nhà bác học thông thái như vậy. Babu mỉm cười nói tiếp:

- có nhẽ các ông còn nhiều đo đắn. Thôi được, hãy nói về yếu tố di truyền cho thực tiễn hơn. nhân tố này là một mầm sống nguyên thủy rất nhỏ chứa đựng trong tất các tế bào. Mọi sinh vật đều có đặc điểm di truyền khác nhau. nguyên tố này cho ta thấy rõ sự sống đã được trù định từ trước vì một cái cây sẽ tạo ra một cái cây, chứ không phải con vật. Từ các loài sinh vật bé nhỏ như con kiến đến các loài sinh vật to lớn như cá voi đều chịu sự chi phối của yếu tố này. Điều này Chắc chắn không phải do ai nghĩ ra hoặc sự tình cờ phải không? Chỉ có Đấng sáng tạo mới có đủ quyền năng làm các việc đó. Này các bạn, khắp nơi trong vũ trụ đâu đâu cũng có một sự quân bình tuyệt đối, không loài nào lấn át loài nào. Hãy nhìn loài côn trùng, chúng sản xuất rất nhanh mà sao không chiếm quả đất? Ấy là vì chúng không có bộ phổi như loài động vật có vú. Chúng thở bằng khí quản của loài sâu bọ (trachea) và khi chúng lột xác lớn lên, khí quản không lớn lên theo nên thân chúng bị giới hạn trong một khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm là có lý trí. Bản năng con thú tuy kỳ diệu, nhưng bị giới hạn. Bộ óc con người ráo ở chỗ nó có thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn nhận thức sự hiện hữu của Thượng đế, cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người mới có. Ta có thể gọi đó là trí hình dong cũng được, nhưng nhờ nó mà con người mới thu nạp các sự kiện vô hình, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở cho ta một chân trời mông mênh và nhờ thế ta mới tinh thần một thực tại diệu kì rằng Thượng đế là tất, ngài ở khắp mọi nơi, nhưng không ở đâu ngài hiện rõ như trong tâm hồn chúng ta.

Toàn thể phái bộ yên ắng, thán phục những viện dẫn hoàn toàn khoa học và giản dị của nhà chiêm tinh. Vài giờ trước đây, ai cũng nghi khả năng của “gã thầy bói”; nhưng Hiện giờ mọi người đều công nhận đó là một nhà bác học với kiến thức uyên thâm không thua kém một ai.

Babu mỉm cười nhìn tất thảy mọi người và nói:

- Là những nhà khoa học, các ông hãy nghĩ suy về những điều tôi vừa biểu thị. Hãy quan sát vũ trụ, hãy dẹp bỏ các thành kiến sẵn có và sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm, rồi các ông sẽ thấy vơ đều diễn ra trong một trật tự, mỹ lệ và điều hòa. Các ông sẽ tinh thần sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ mông mênh vì khoa học xây dựng trên cơ bản của giác quan vốn rất giới hạn, sao có thể thấu cảm với vũ trụ được? Nếu ta cứ nhất định cho rằng những gì không nghe được, không nhìn được đều không hiện hữu thì thật là một sai trái ác hại. Có biết bao nhiêu sự kiện xảy ra mà giác quan giới hạn của con người không thể cảm nhận, cho đến một ngày nào họ khai mở các cảm quan khác….

- Làm sao ông biết như thế?

- Tôi đã nghiên cứu trực tiếp các vấn đề này trong khi Thiền định. Các sách vở bí truyền cũng đều nói rất rõ như vậy…

Giáo sư Mortimer vội vã:

- Chúng tôi có thể nghiên cứu hay phiên dịch những sách này không?

Babu mỉm cười:

- Liệu ông có muốn bỏ ra vài chục năm để thông dịch không? Sách vở huyền môn đâu phải loại sách phổ biến để mọi người coi chơi. Theo tôi hiểu thì chỉ một thiểu số người thích nghiên cứu nó vì trong tiền kiếp họ đã có những hứng khởi linh tính, đã từng nghiên cứu vấn đề này, đã có đủ trí não để xét suy một cách tận tường. Họ là những người đã đến bên thềm Đạo và sắp bước vào. Chỉ những người này mới thú nhận để tâm nghiên cứu những quyển sách khô như những sách trong nhà tôi.

Toàn thể phái bộ im lặng, mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ riêng nhưng tất cả đều đồng ý rằng nhà chiêm tinh nói không sai. Giáo sư Allen lên tiếng:

- vì sao thấy ánh sáng Chân Lý rồi mà ông vẫn tiếp hành nghề chiêm tinh. Tại sao ông còn chỉ vẽ cho cõi trần về kí vãng, vị lai?

Babu hãnh diện tuyên bố:

- Tôi sống và phụng sự trần thế bằng nghề này. Đâu phải ai tôi cũng tiếp, bất kể đó là tiểu vương hay thủ tướng. Nếu thấy bạn không có tâm hướng thiện, sửa đổi thì không không lẽ tôi hé môi nói một điều gì. sao người đã đến cổng, nhưng mấy người vào được đến đây. Cách đây ít lâu, một tiểu vương cho khuân đến một rương ngọc chỉ để hỏi tôi một điều nhưng tôi không đáp. Nếu không nhận được một thông điệp bằng tư tưởng thì dễ gì tôi tiếp các ông và nếu không xem qua lá số của giáo sư Oliver, dễ gì tôi tiết lậu các bí ẩn cho những người lạ, nhất là người Âu Mỹ. Từ xưa đến nay, khoa chiêm tinh vẫn bị trần gian hiểu lầm và trình bày sai lạc rất nhiều. Nhờ nghiên cứu bộ sách nguyên thủy Brahma Chinta nên tôi có thể nói cho các ông biết chút xíu về khoa học này, với hy vọng sẽ đánh đổ phần nào thành kiến sai trái của người Âu.

Khi sinh ra đời, mỗi cá nhân đều mang sẵn một tài sản khác nhau, đó là Nghiệp Báo. Tài sản này có thể tốt đẹp do các nguyên cớ hợp với thiên ý hoặc xấu xa bởi các lỗi lầm trong tiền kiếp. ắt nguyên cớ này đều ẩn chứa trong Tàng thức hoặc A-lại-da-thức (alayavijnana), và trở thành động lực chi phối đời ta.

Động lực này bị ảnh hưởng bởi các mãnh lực trong vũ trụ một cách hết sức phức tạp và biến thành một thứ gọi là Tia vũ trụ (cosmic rays). Những Tia vũ trụ này không ào ạt ảnh hưởng đến ta ngay, mà tùy theo sự đổi thay của tinh tú để phản ảnh xuống nhân gian. Điều này rất hợp lý vì qua vô lượng kiếp sống, con người đã làm biết bao điều xấu xa, đâu thể nào trong vài ba kiếp mà trả hết được. Đó cũng là lý do con người cứ trầm luân trong luân hồi tử sinh. Chiêm tinh học nghiên cứu sự di dịch, vận hành của tinh tú mà đoán biết được các ảnh hưởng đối với con người trong kiếp sống này. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh mà người ta hiểu rõ rằng không hề có một đấng thần nào thưởng phạt hay kiểm soát các hành động của ta. tất tật chỉ là hậu quả của những gì do ta tạo nên và ta phải gánh chịu.

- Nhưng chính ông đã đề cập đến Thượng đế và sự hiện hữu của ngài kia mà?

Babu bật cười:

- Các ông vẫn còn quan niệm rằng Thượng đế là một ông già ngồi trên cao nắm quyền sinh sát, định đoạt mạng con người – đó là một quan niệm rất ấu trĩ. Thượng đế cao cả hơn nhiều, ngài sáng tạo và đặt vớ vào một trật tự trong vũ trụ. Làm gì có việc ngài định đoạt mệnh từng người như các ông nghĩ. tuốt diễn tiến theo luật vũ trụ, nhân nào quả nấy, bất cứ lực nào cũng có một phản lực đi kèm; đó là khoa vật lý chứ đâu phải gì xa lạ? Làm gì có việc số mệnh đã định sẵn, nếu thế ta cứ tiêu cực, bất động mặc cho mệnh run rủi hay sao? Này các bạn, chiêm tinh học là một khoa học thực tế và tiến bộ, không thể có vấn đề mê tín. Lá số tử vi không có nghĩa rằng con người là nô lệ của dĩ vãng, mà nó cho ta thấy rõ sự tuần hoàn của vũ trụ, trong đó con người có thể đổi thay số mạng của mình. Chiêm tinh học nghiên cứu phản ứng của con người dưới ảnh hưởng của các vì tinh tú. Các tinh tú chỉ là những khí cụ trung gian biểu đạt một cách chân thực các tác động quân bình của nghiệp quả gây nên trong dĩ vãng. Mỗi người sinh ra đời vào một ngày giờ mà ảnh hưởng của tinh tú hòa hợp với nghiệp quả cá nhân của người đó. Các tia vũ trụ được tinh tú phản ảnh xuống làm huyết quản chuyển di, tế bào thay đổi, cố nhiên ảnh hưởng đến thế cuộc con người. dù rằng con người chẳng thể thay đổi việc đã xảy ra trong kí vãng, nhưng nhờ ý chí tự do, họ có thể vượt khỏi tầm ảnh hưởng này và chiến thắng ảnh hưởng tinh tú. Tôi lấy một thí dụ như

thương buôn Keymakers, bạn của các ông. Đáng lý theo số mạng thì ông ta phải chết trong cuộc chiến vừa qua. Nhưng vì một mầm thiện phát sinh, thấy chiến tranh quá ư thảm khốc, ông ta động lòng trắc ẩn mang tài sản ra trợ giúp rất nhiều nạn nhân chiến cuộc. tất nhiên, khi đó ông ta không hề biết gì về số mạng của mình, nhưng hành vi nhân ái này đã tạo một phản lực mạnh mẽ thúc đẩy các tia vũ trụ di dịch sang một bên và nhờ thế ông ta thoát chết. Số mạng của ông ta hoàn toàn đổi thay từ đó. Các ông cần hiểu rằng hoán cải số mạng không có nghĩa việc quá khứ sẽ bị xóa bỏ, nhưng đáng lý một biến cố lớn sẽ xảy ra trong kiếp này, lại không xảy ra. Khi ta phát tâm làm một việc hợp với thiên ý thì một tinh tú ảnh hưởng tới ta bỗng chói sáng và các sóng điện mạnh mẽ đẩy ngược tia vũ trụ sang hướng khác. Do đó, con người có thể cải số dễ dàng nếu biết làm các việc tốt lành, đẹp đẽ. Dĩ nhiên, ảnh hưởng xấu không mất đi, nhưng sẽ tiềm ẩn, chờ một dịp khác sẽ xuất hiện lại. Nói một cách khoa học thì đời người có thể ví như một phương trình toán học, A + B = C. A với B là nguyên do và C là hậu quả, nhưng nếu ta thêm vào đó một căn nguyên X thì A + B + X sẽ chẳng thể bằng C nữa, vì đã có thêm giá trị X. Đó là nguyên lý hoán cải số mạng mà tôi vừa diễn tả. Đời người thực ra đã ghi khắc trên tinh tú nhưng các tinh tú khi sáng khi mờ, và sự mờ tỏ do chính ta quyết định. Khi ta có các hành vi xấu xa, nó tạo ra những động lực xấu và sẽ thu hút các điều xấu ghi khắc trên tinh tú, phản chiếu xuống

mau lẹ hơn. cố nhiên hậu quả là không thể lường. ngược lại, nếu ta ý thức điều này, phát tâm làm việc có ích thì sẽ thiên nhiên phát sinh các động lực tốt đánh bật các ảnh hưởng xấu sang một bên. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh học một cách đúng đắn, khoa học, con người sẽ hiểu biết mệnh trời, biết tin cẩn ở mình và sống thế cục thoải mái, không bi quan, không lạc quan, an vui tự tại.

- Như thế người đi trên đường Đạo, sẽ gặp gì khi đã có nghiệp quả xấu?

- Nghiệp quả xấu ví như một án treo, bất động, nhưng không ai có thể tránh được nó. Đối với những người đã vào cửa Đạo, đã hiểu biết thì họ lại cầu xin được trả quả cho lẹ. Tuy họ không gây các nhân xấu nữa, nhưng họ đủ anh dũng để chịu đựng nghiệp quả. Có thế họ mới rút ngắn thời kì trong sinh tử luân hồi. Hiểu biết mệnh trời để sống thoải mái chính là mục đích của khoa chiêm tinh chân chính.

Babu im lặng suy nghĩ. Sau cùng, ông bước đến một cái tủ lớn rồi mang ra một cái hộp nạm vàng rất đẹp. Trong hộp chứa một quyển sách cổ viết trên giấy papyrus, ông long trọng tuyên bố:

- Đây chính là một phần của bộ Brahma Chinta mà tôi sưu tầm được. Các ông nên biết huyền môn có hai phần - công truyền (exoteric) và bí truyền (esoteric). Loại bí truyền chỉ được dạy cho các môn đệ đã bước vào cửa Đạo, đã được tuyển rất kỹ. Hiền triết Bhrigu chỉ truyền cho 4 môn sinh bộ sách này. Tôi tiếc rằng phần nhỏ tôi sưu tầm được này còn nhiều tội lỗi và rất khó hiểu, mất hơn 20 năm nghiên cứu mà tôi chỉ hiểu tí đỉnh thôi. Gặp gỡ các bạn hôm nay là một nhân duyên hiếm có, tôi xin dịch vài trang để làm quà cho các bạn:

“Vạn vật trong vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều được xếp hạng và phân loại theo quy mô của số 7. ắt mọi hình thức sinh hoạt trong dãy hành tinh ngày nay đều thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 49 nhóm. Toàn thể mặt trời hệ của chúng ta đều là sự mô tả của Thượng đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của ngài. ngoài ra có 7 vị tinh quân, mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này chỉ là những trung tâm thần lực, những con đường để thần lực Thượng đế ban ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí ứng với ba cõi giới Hạ giới, Trung giới và Thượng giới. Thượng đế cũng thế, tất thảy vật chất trong Hạ giới hợp thành thân xác của ngài. tất thảy vật chất cõi Trung giới hợp thành vía của ngài, và ắt vật chất cõi Thượng giới hợp thành thể trí của ngài. Tóm lại, tất cả đều là thành phần của Thượng đế, từ hạt bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là một phần của Thượng đế xuyên qua 7 cung – khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều, tùy ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung nào tùy số lượng nguyên tử cấu tạo lên đường từ cung liên quan”.

Babu nhìn mọi người. Thấy họ có vẻ ngơ ngác, ông mỉm cười giảng giải:

- Đề tài này rất khó hiểu, thôi để tôi giảng giải rộng ra vậy. Nói theo danh từ Thiên Chúa giáo thì 7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách Khải huyền 4.5 nói rõ, “có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của Chúa Trời”. Lúc khởi thủy, mọi người chúng ta đều là thành phần của Thượng đế, nghĩa là cùng bắt nguồn từ một nơi. Sau đó, chúng ta tách rời ra, xuyên qua 7 con đường vận hà này. Theo sự hiểu biết của tôi, thì 7 con đường bộc lộ 7 đức tính của Thượng đế, qua 7 vị tinh quân. Vị thứ nhất là thiên thần Michael (sức mạnh), can dự đến Hỏa tinh. Vị thứ hai là Gabriel (toàn tri) liên can đến Thủy tinh. Vị thứ ba là Raphael (quyền năng) liên hệ đến mặt trời.

Vị thứ tư là Uriel (ánh sáng) liên tưởng đến Mặt trăng. Vị thứ năm là Zakiel (hảo ý) can hệ đến Mộc tinh, còn hai vị kia là Jophiel và Samuel thì tôi không biết rõ hành tinh hệ trọng. Khoa học thực nghiệm tin rằng các hành tinh đều là sự kết hợp tình cờ của vật chất. Nếu là tình cờ Tại sao chúng nằm ở các vị trí cố định trong vũ trụ, và di chuyển theo một quỹ đạo nhất mực? Mọi vật hình như tuân theo một định luật thiên nhiên, nhưng đằng sau định luật đó xoành xoạch có một sức mạnh linh nghiệm quản ngại. Tôi rứa dùng tên các vị thiên thần và danh từ đạo thiên chúa để giảng giải cho các ông. Điều này có thể được trình bày khác đi tùy theo quan niệm tôn giáo, văn hóa; nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa chiêm tinh phải đi ngược về nguồn cội. Con người từ một chốn nguyên thủy ví như nước cùng một nguồn chảy theo bảy dòng suối khác nhau để ra biển. Mỗi dòng suối sẽ mang một thuộc tính khác nhau, do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều. Loài người có thể phân biệt ra 7 đức tính rõ rệt tùy theo con đường vận hà mà họ sang trọng. Chiêm tinh nghiên cứu con người và sự ảnh hưởng của hành tinh đến các tính tình nhất định. Cũng như khoa Sinh lý học phân biệt con người qua thuộc tính nồng hậu, bàng quan, bạch huyết chất hay đa huyết chất. Thực ra đó chỉ là các phương pháp khác nhau để miêu tả thuộc tính con người. Dĩ nhiên không dễ gì tìm ra cung của mỗi người vì họ đã đi sâu trong luân hồi sinh tử, tạo các nghiệp quả phức tạp, và những duyên do này chế ngự, ảnh hưởng đến tính tình họ rất nhiều. Chỉ với sự khai mở các giác quan như Thần nhãn hay có một kinh nghiệm sâu xa về huyền môn, ta mới có thể biết rõ họ thuộc cung nào. Nếu một người biết rõ cung của mình và tiếp chuyện trau dồi bản chất sẵn có, thì anh ta sẽ tiến bộ rất nhanh, vì khí cụ hữu hiệu nhất là phương pháp thuộc về cung can dự. thí dụ như người có khiếu về âm nhạc lại cứ học toán. Không phải anh ta sẽ không tiến bộ gì, nhưng nếu đi về âm nhạc anh ta sẽ tiến nhanh hơn vì hợp với khả năng hơn. Việc hiểu biết mình là ai, có những khả năng tiềm tàng nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính xác. Đó mới là mục đích của khoa chiêm tinh. Đa số con người hành động không tinh thần, chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh, nên luôn bất mãn, không thoải mái. Họ tự đóng kịch với chính mình, hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ không thích hợp. Trong Kinh Thánh có câu: “Nếu các ngươi không hồn nhiên như con trẻ, các ngươi không thể vào nước thiên đàng”. Điều này khuyên ta nên sống thật với chính mình. Chiêm tinh học có thể giúp ta biết ta là ai, thích hợp với những công việc gì. Nghiên cứu chiêm tinh như thế mới gọi là đứng đắn, chứ không phải chỉ xem dĩ vãng, vị lai, may rủi.

- Làm sao con người có thể biết họ hiệp với cung nào?

- Một nhà chiêm tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá nhân đó can dự với cung nào, điều này đòi hỏi rất nhiều thì giờ, kinh nghiệm. Một phương pháp khác là hãy nhìn vào hành động của mỗi người. Người thuộc cung 1 sẽ đạt đến mục đích bằng sức mạnh ý chí. Người thuộc cung 2, phân tách kỹ lưỡng vấn đề để chọn lựa phương pháp nào hữu hiệu nhất. Người thuộc cung 3 nghiên cứu rất kỹ về thời kì, giờ khắc tiện lợi nhất, v.v. Một ví dụ khác như trong việc chữa bệnh, người cung 2 sẽ tìm hiểu căn do và phương pháp nào hiệp nhất để chữa bệnh, trong khi đứa ở cung 3 sẽ nghiên cứu thời gian nào tiện lợi để chữa. người ở cung 6 sẽ tìm cách chữa bệnh bằng đức tin. Người thuộc cung 7 sẽ chữa bằng các nghi lễ, cúng tế, v.v. Tuy nhiên, cách tốt hơn hết là tự mình xét lấy mình. Hãy dẹp bỏ những điều mình vẫn khoác lên bản ngã như danh vọng, địa vị, ham muốn. Hãy thành thật với chính mình thì ta có thể xem được mình thuộc về cung nào. Nếu ta là người có ý chí mạnh mẽ, kiên quyết làm việc trong ý thức khoa học thì Có lẽ ta ở cung 1. Nếu là người khôn khéo, thích lý luận và làm việc một cách hiệu quả thì Có lẽ ở cung 2. Nếu là người mẫn cảm, thích hoạt động từng lớp, từ thiện thì Có lẽ ta thuộc cung 5. Nếu là người có đức tin mạnh mẽ, cẩn thận, có thể ta thuộc cung 7, v.v.

Đề tài các cung rất khó giải thích trong một thời gian ngắn. Tôi chỉ có thể nói vắn tắt thôi. Cái vật chất nguyên sơ nguyên thủy bắt đầu tiến hóa qua 7 con đường vận hà hay 7 đức tính quan trọng. Chỉ khi nào một con người phát triển vẹn toàn cả 7 đức tính này thì người ấy mới trở thành toàn thiện. tất nhiên chúng ta đều bất toàn, dù mỗi cá nhân chủ nghĩa đã nảy nở các đức tính cấp thiết căn bản. Người Âu Tây đã khai mở rất nhiều khả năng suy luận, khoa học, nhưng lại thiếu khả năng sùng tín, có nhân. Vì lý trí nảy nở nhiều hơn tình cảm nên họ có vẻ thiếu thiện cảm, hờ hững, thích chống báng thay vì dung hòa. Trong khi đó, người châu Á phát triển mạnh mẽ về sự sùng tín, có nhân nhưng thiếu khả năng suy luận, để tình cảm chi phối nên họ có vẻ chịu đựng, nhượng bộ, khoan dung, dễ dãi. Cả hai đều không quân bình tuyệt đối, nên trong mai sau sẽ có các biến chuyển mạnh, xáo trộn để nhân loại có dịp học hỏi, hòa hợp với nhau.

Babu im lặng nghĩ suy một lúc rồi trầm giọng:

- Trong cuộc thế nghiên cứu sách vở bí truyền của các tôn giáo, tôi không hề thấy có sự khác biệt giữa các giáo lý, nếu không nói là y hệt nhau. Tiếc thay, con người chỉ thích đi tìm sự khác biệt để chỉ trích, phê bình và càng ngày càng đi xa đến chỗ vô minh khốn cùng.

- Nhưng các tôn giáo có khác biệt nhau chứ? Babu nhẹ nhàng:

- Này các bạn, mỗi quốc gia có phong tục tập quán riêng biệt. Mỗi thời buổi đều có các thay đổi, giá trị khác nhau. Do đó, một chân lý cũng có thể được giảng dạy bằng các phương pháp khác nhau. Phương pháp, tiếng nói có thể khác, nhưng chân lý vẫn là một; cũng như Thượng đế có 7 con đường vận hà khác nhau qua bảy cung. Nguyên tử mỗi cung có các rung động khác nhau, có màu sắc khác nhau, thuộc tính khác nhau, nhưng nó đều là nguyên tử lên đường từ Thượng đế. Nếu bạn đổi thay áo mặc khác nhau thì bạn đâu có đổi thay, chiếc áo có thể khác nhưng người mặc áo vẫn chỉ là một. Nếu các ông đi ngược về nguồn cội thì các ông sẽ hiểu sự đổi thay của từng thời kỳ qua sự ảnh hưởng của các vì tinh tú.

Giáo sư Allen thắc mắc:

- Xin ông giải thích thêm về điều này.

Babu trầm tư mặc tưởng nghĩ suy một lúc rồi giải đáp:

- Trong 7 vị tinh quân có những biến đổi diễn ra từng thời kỳ giống như sự tuần hoàn của hơi thở trong bộ máy hô hấp, hay sự vận động của quả tim. Các sự biến đổi này diễn ra vô cùng phức tạp, dưới thiên hình vạn trạng. Vì lẽ thể vía con người được cấu tạo cùng một nguyên tử với thể vía các vị tinh quân, nên khi vị tinh quân đổi thay, thiên nhiên mọi người trên thế gian cũng ít nhiều ảnh hưởng theo. Nói một cách khác, khi vị tinh quân quản một cung đổi thay thì những người đã đi qua cung đó, nguyên tử cấu tạo có chứa đựng nhiều tỷ lệ của cung đó sẽ thay đổi theo. Trong lộ trình tiến hóa, đã có những sự đổi thay trong đầu óc loài người, từng thời kỳ và do đó, văn minh nhân loại cũng đổi thay. Theo sự nghiên cứu của tôi thì mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 100 năm, nhưng cứ 25 năm cuối lại có các biến chuyển gây ảnh hưởng cho chu kỳ kế tiếp.

- Như vậy thì sự biến chuyển kỳ này sẽ bắt đầu vào khoảng 1975 cho đến năm 2000 và ảnh hưởng đến thế kỷ 21?

Babu gật đầu:

- Thật ra chu kỳ không hoàn toàn trùng hợp từng năm, từng tháng, vì niên lịch thường nhật không xác thực. Khoa chiêm tinh dùng một thứ lịch khác theo sự chuyên chở của các tinh tú. Tuy nhiên, để giản dị hóa vấn đề này ta có thể nói rằng cứ 25 năm cuối của mỗi thế kỷ là buổi giao thời có nhiều sự đổi thay mãnh liệt.

Giáo sư Mortimer buột miệng:

- Nhưng đã có bằng cớ nào rằng cuối thế kỷ này sẽ có các đổi thay lớn?

Babu mỉm cười nhìn toàn bộ mọi người:

- Các ông đều là người Âu, tôi xin viện dẫn bằng lịch sử châu Âu cho dễ hiểu. Các ông có thể coi nó là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được. Năm 1275, Roger Bacon khởi động phong trào Phục hưng văn hóa, rồi suốt 100 năm sau, toàn thể châu Âu đều thay đổi. Năm 1375, Chirstian Rosenkreuz phổ thông nền văn hóa này khắp các từng lớp quần chúng. #, đưa châu Âu thoát khỏi thời kỳ Trung cổ hắc ám. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay sao?

Giáo sư Mortimer, một nhà bác học về cổ ngữ và lịch sử châu Âu suy nghĩ:

- Quả thế, phong trào phổ biến văn hóa bằng đường lối phục hưng đã cứu nguy cho sự suy đồi của châu Âu, nhưng đó chỉ là hai trường hợp. Tôi thiển nghĩ muốn kết luận ta cần nhiều dữ kiện rõ ràng hơn.

Babu mỉm một nụ cười bí hiểm và xác định:

- Thế thì ông nghĩ sao về việc phát minh ra máy in, kỹ thuật ấn loát vào năm 1473? Nhờ thế tư tưởng các triết nhân, giáo sĩ mới phổ quát ra khắp quần chúng. #, nâng cao dân trí châu Âu? Ông nghĩ sao về Francis Bacon và cao trào nghiên cứu khoa học năm 1578, sử dụng Anh ngữ thay vì tiếng Latin để phổ quát kiến thức khoa học. Có phải những việc này đã đem khoa học vào xã hội để cải thiện cuộc sống hay không? Những việc này xảy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. Phải phục hưng văn hóa, đưa châu Âu thoát khỏi các định kiến hủ lậu đã, rồi canh tân, phát triển khoa học để mọi người biết suy luận, sau đó mới đổi thay xã hội được chứ. Văn hóa đi trước, phổ biến tư tưởng để dọn đường cho các đổi thay chính trị, xã hội về sau. Năm 1675, các hội kín bắt đầu mọc lên, kêu gọi san bằng giai cấp, dẹp tan bất công từng lớp gây nên bởi chế độ bảo hoàng. Năm l789, cuộc cách mệnh Pháp đã bùng nổ, và thay đổi hẳn lịch sử châu Âu. Hai biến cố này đều xảy ra trong vòng 25 năm cuối của thế kỷ 17 và 18. Từ đó đến nay chắc các ông đã thấy?

Giáo sư Mortimer toát mồ hôi trán. Lịch sử châu Âu đối với ông nào có xa lạ gì, nhưng sự giải thích của Babu đã làm ông bừng tỉnh.

Toàn thể phái bộ đều bàng hoàng, bái phục Babu. Trong một buổi chiều, nhà chiêm tinh xứ Ấn đã hùng biện, chứng dẫn về toán học, sinh vật học, triết học, tôn giáo và cả lịch sử châu Âu như một học giả thâm uyên nhất. tri thức của ông đã chinh phục vơ mọi người.

Giáo sư Mortimer run giọng:

- Vậy thì theo ông việc gì sẽ xảy ra cho thế kỷ 20 này?

Babu im lặng nghĩ suy một lúc rồi trả lời:

- Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan yếu, đó là sự phát triển khoa học văn minh cơ giới cùng thuyết tiến hóa của Darwin, và phong trào công giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. Có hai mãnh lực rất mạnh khởi hành từ hai bầu tinh tú đối cực, gây nên phong trào Duy tâm và Duy vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát triển cực thịnh của thuyết Duy vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp các thử thách mà nhu cầu của dạ dày, khoái cảm xác thân chiến đấu với nhu cầu của tâm linh một cách mãnh liệt. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào Duy tâm sẽ phát triển mạnh mẽ và được phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hóa linh tính. Cuối thế kỷ 20, phong trào Duy vật sẽ sụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu. Này các bạn, các bạn đều là những người tiền phong. Trước khi một sự phổ quát Bí giáo được thực hiện, phải có những hạt giống gieo sẵn và nẩy mầm. Đó là lý do các bạn được xúc tiến để nghiên cứu các hiện tượng huyền bí phương Đông. Tôi chẳng thể tiết lộ thêm điều gì, nhưng qua lá số tử vi của Oliver, tôi quyết đoán những điều tiên lượng đều sẽ thành sự thật. Chắc chắn trong 25 năm cuối của thế kỷ này, sẽ có nhiều đổi thay và có những chũm giúp cho sự tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng. Có hai loại người trên trần gian: một loại đã thấy ánh sáng nhãi con nơi cuối chân mây và định hướng để tiến tới đó. đương nhiên, họ sẽ phải đương đầu cam go với các cám dỗ, các cảnh ngộ bất lợi xảy ra chung quanh. Nhưng ở họ, hy vọng xoành xoạch sáng rỡ. Hạng thứ hai, không cảm nhận được các tư tưởng thanh cao, không tin cậy những điều cao thượng. Họ là những người lạc lõng, đáng thương, vì họ sẽ phải học các bài học khôn cùng khổ cực cho đến khi họ hiểu biết và quay đầu về phía ánh sáng. Điều này đã và đang xảy ra.

- Chuyện gì sẽ xảy ra cho những người không hiểu biết này?

Babu bật cười:

- Các ông nghĩ rằng Thượng đế sẽ trị họ ư? không đâu vào đâu, họ sẽ phải tự học lấy những bài học trong lầm lỗi, trong khổ đau. thí dụ như người muốn đi từ quê lên tỉnh, họ có thể đi theo các con đường đã trải nhựa sẵn sàng, theo bản đồ chỉ dẫn. Nhưng có người cứ nhất mực đi theo ý mình bất tuân theo lề luật, đường dọn sẵn không đi, bản đồ có sẵn không thèm nhìn. Những người ấy sẽ đi vào rừng, dẫm lên hóc búa, đớn đau, lạc lối cực kì. Sau đó, họ mới tinh thần được sự ngu xuẩn của mình. Đời là một bài học khôn cùng quý báu mà ai cũng phải học. Cõi đời đầy những vô thường, khi thế này lúc thế khác chứ đâu êm xuôi bằng phẳng.

Babu ngưng nói đưa mắt nhìn về sông Hằng. Bên kia bờ sông là một câu lạc bộ với những ánh đèn màu cùng tiếng nhạc dập dìu. Ông thở dài:

- Đó là nơi họp hành của một hội đồng thương mại. Hội này quy tụ toàn các lái buôn, các bậc thượng lưu, trí thức, phong lưu bậc nhất thị thành này. Tuần nào họ cũng hội họp ăn uống. phần nhiều đều đã ngoài 60 mà vẫn còn ham vui. cơ thể họ đã suy nhược, nhưng lòng hưởng thụ vật chất còn mãnh liệt. Họ tập kết nhau để chuyện trò mưa gió, thời tiết, thú vui đời người. Không ai tinh thần được rằng chỉ ít lâu nữa, ai cũng phải từ biệt thiên hạ. Nghe họ vui đùa, tưởng như họ có thể lột da như giống rắn để sống mãi mãi như thế.

Babu nhìn lên bầu trời đầy sao, trầm tư mặc tưởng:

- Mọi vật trong vũ trụ đều quân bình tuyệt đối, không dư, không thiếu, từ hạt bụi bé nhỏ đến những dãy thiên hà vĩ đại. Đời người quá ngắn, và luôn bị cuốn vào sinh hoạt quay cuồng. Đâu mấy ai ý thức được sự phung phá hôm nay dọn đường

cho sự khổ đau mai sau. cả thảy chỉ là những ảo ảnh chấp chới, vậy mà người ta cứ coi như thật. Nếu biết thức tỉnh quan sát, ta có thể học hỏi biết bao điều hay. Tiếc rằng khi đắc thời người ta quên đi dĩ vãng rất nhanh. Chỉ trong thống khổ, điếm nhục ê chề mới chịu học. Có thể đó cũng là lý do xoành xoạch có các biến động vô thường, giục giã con người học hỏi.

- Ông nghĩ rằng con người sẽ học hỏi trong thống khổ? Babu thở dài:

- Đúng thế, chúng ta có tính hay quên, nên cứ phải học đi học lại cái bài học khổ. Chỉ khi bị khổ sở, bị đàn áp, tự do bị giày xéo, con người mới quay về với niềm hy vọng rút cuộc là đức tin. Khi sung sướng ít ai nghĩ đến việc tu thân cầu đánh tháo. Khi thân bệnh hoạn, ta mới thấy khỏe mạnh là hạnh phúc. Khi bị cầm tù, ta mới thấy giá trị của tự do. Tiếc rằng khi khỏi bệnh, ta không ý thức duyên cớ đã gây nên bệnh đó, nhưng mà tiếp chuyện một đời sống như trước; do đó, ta cứ bị bệnh hoài.

- Nhưng con người cũng học hỏi rất nhiều, và đã có tiến bộ lớn lao.

Babu ngắt lời:

- Các ông gọi như thế nè tiến bộ? Trên bình diện vật chất, con người ta đã tiến bộ chút ít so với những thế kỷ trước. Nhưng bình diện ý thức vẫn nghèo nàn như xưa, chả tiến được chút nào, chứng cứ là họ vẫn tiếp tục các lầm lỗi dĩ vãng.

- Ông muốn nói đến chiến tranh ư?

Babu lặng im nhìn lên bầu trời đầy tinh tú, ngẫm nghĩ một điều gì.

Toàn thể mọi người lặng im đợi. sau hết, giáo sư Allen lên tiếng:

- Theo ông, thì hòa bình có thể thực hành một ngày gần đây không?

Babu mỉm cười giải đáp:

- Các ông nghĩ rằng với khả năng bé nhỏ của tôi mà có thể biết hết được ư? Từ khi con người có mặt trên trái đất này đã có hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác. Chiến tranh có bao giờ chấm dứt được? Thực ra chiến tranh chỉ là sự diễn đạt dạng bên trong chúng ta, là sự bơm các động tác hàng ngày của chúng ta. Sở dĩ mỗi ngày nó một trầm trọng hơn là do kết quả các hoạt động kỹ nghệ và óc sáng tạo của con người. Chiến tranh chẳng thể kết thúc nếu các căn do gây nên cuộc chiến vẫn còn. Nếu có một cây cổ thụ thật lớn và ta muốn xoá sổ nó. Ta chẳng thể leo lên vặt hết lá cây được, vặt lá này nó lại mọc lá khác phải không các bạn? Cách độc nhất vô nhị là đốn tận cỗi rễ. nguyên nhân chiến tranh bắt nguồn từ các tham vọng, giận dữ, oán thù, đầu óc quốc gia, bộ lạc, tinh thần phái, đố kỵ, ghen ghét, v.v. Tận diệt được các thói xấu này là kết thúc chiến tranh. Phương pháp độc nhất vô nhị là làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn. Chỉ khi nào loài người tinh thần điều này và đổi thay quan niệm sống, xóa bỏ lòng thù hận thì họ sẽ thấy bình an. Tiếc rằng ai cũng chỉ nhìn thấy sự sai quấy nơi người khác nên mới có tình trạng ngày nay. Hòa bình và nhã ý cần đi đôi với nhau, nên không ai có thể thực hành hòa bình khi lòng còn đầy oán thù, ghen ghét, muốn bóc lột kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân mình hay phe phái mình. tuốt tuột các hội nghị, các mưu tính để mang lại hòa bình cho nhân loại đều thất bại vì con người không chịu thực hành hòa bình ở chính mình.

Babu mỉm cười nhìn tuốt luốt mọi người một lúc, rồi trầm giọng:

- Các ông đều biết Alexander Đại đế, người đã chinh phục thế giới. Trong việc xây dựng hòa bình cho Hy Lạp, ông đã càn quét, xoá sổ tất cả những nước láng giềng có thể đe dọa xứ sở của ông. Rồi cứ thắng xong trận này lại phải lo đến trận khác, và cuộc chiến tranh để mang lại hòa bình cứ kéo dài. Alexander là một người sáng ý theo học với hiền triết Aristotle. Khi lên ngôi hoàng đế, ông đã tâm tình với thầy: “Con sẽ chiến thắng Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ”. Aristotle hỏi: “Rồi sao nữa?”. Alexander suy nghĩ: “Sau đó, con có thể ngủ một cách bình an”. Aristotle mỉm cười, “Con hỡi, Tại sao con không ngủ bình an ngay đêm nay có hơn không?”.

Babu kết luận:

- Tôi nghĩ con người cần đặt cho mình một câu hỏi na ná. Hãy quan sát lòng mình một cách thành thật xem mình muốn gì? Chúng ta muốn bình an hay khích động? Phải chăng chúng ta đều phấn khởi muốn cái gì? Mỗi buổi sáng, chúng ta vội vã cầm lấy tờ báo để tìm các tin cậy sôi nổi nhất. Nếu không có tin gì về chiến tranh, thiên tai, đảo lộn, khó khăn kinh tế… thì chúng ta vất tờ báo xuống đất và than rằng chả có gì đáng xem. Có phải thế không? Chúng ta muốn sống yên, không thích xáo trộn, nhưng rất ham thích nghe nói về các sự xáo trộn của kẻ khác. Chúng ta dành nhiều giờ để bàn cãi sôi nổi về người này, người nọ, chê bai ông này, giễu cợt bà kia. Phải chăng chúng ta vẫn làm thế? Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi, vì sao chúng ta lại làm thế không? Lòng ta còn ham tiền nong, danh vọng, địa vị, sức khỏe, và chỉ cầu bình an cho chính mình thôi, nên chẳng bao giờ thỏa mãn. Nếu ai có hỏi thì ta cũng sẽ chối quanh như Alexander Đại đế chỉ xin một giấc ngủ bình an mà thôi. Giấc ngủ bình an nào có khó, nào có bóng gió diệu vợi, tốn công nhọc sức mới có. Làm sao ta có thể lao đầu vào vật chất phù du, xây dựng danh vọng địa vị, thỏa mãn cái phàm ngã hữu hình hữu hoại đồng thời tìm sự bình an, yên tĩnh? Chính các điều trên đã phá vỡ sự tĩnh sung mãn của nội tâm ta. Phiền não là do chính ta tạo nên, chứ đâu phải tình cảnh phải không các bạn? Ngày bữa nay chúng ta đã nói chuyện rất lâu rồi. Các bạn sẽ còn qua một hành trình dài, gặp gỡ nhiều bậc danh sư, hiền triết. Tôi chúc các bạn tìm được niềm an tĩnh của tâm hồn.

Babu mỉm cười, giơ tay tiễn khách. Vầng trăng đã lên cao, nhấp nhoáng phản ánh trên sông Hằng.

Chương 4TRÊN ĐƯỜNG THIÊN LÝ

Cuộc gặp gỡ Brahmananda và Sudeih Babu đã thay đổi hết thảy. Cho đến lúc đó, phái đoàn mới xác nhận rằng đằng sau khu rừng mê tín dị đoan, còn có những chân lý cao siêu đáng học hỏi và nghiên cứu. Sự hiện diện của một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho Brahmananda và Sudeih Babu, làm phái bộ hào hứng, tin tức rằng cuộc khảo cứu sẽ còn vượt xa hơn điều họ dự tính.

Cuộc xúc tiếp với Sudeih Babu đã khiến mọi người bắt đầu cởi bỏ các định kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và lòng tự hào của người Âu để bắt đầu quan sát, học hỏi thêm về nền minh triết bí truyền của Á châu.

phái bộ bắt đầu cuộc hành trình nhắm hướng Rishkesh trực chỉ. Lúc đầu, đường sá còn tốt nên việc chuyển di còn mau chóng, nhưng về sau có những đoạn đường bị đứt quãng, phái bộ phải dùng lừa, ngựa hoặc thỉnh thoảng phải đi bộ qua các eo núi. Sự kiện một nhóm người Âu chuyển di trên những con đường độc đáo, heo hút là một điều chưa hề xảy ra. Các sĩ quan binh lực tôn thất đã khôn xiết ngăn trở vì lý do an ninh. mặc dầu Ấn Độ là thuộc địa của Anh, nhưng nhiều địa phương vẫn không cộng tác với chính quyền. Việc chuyển di đòi hỏi sự hộ vệ của lực lượng quân đội vũ trang đầy đủ. Có nhiều vùng, ngay cả dân địa phương cũng ít dám hỗ tương, vì có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Để đề phòng, phái bộ đã vũ trang cẩn thận, nhưng trong thời kì chuyển di không hề có một sự kiện đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm nghĩ như được che chở bởi một quyền năng mạnh mẽ vô hình.

Trên đường, phái bộ đi qua một đền thờ của đạo Jain. căn bản của đạo này xây dựng trên chủ trương mở mang lòng từ bi (Ahimsa). tín đồ đạo Jain thực hiện lý tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích. Đạo Jain được thành lập hơn 2.000 năm, do đức Mahavira, một vị hoàng tử đã từ bỏ cung vàng điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo. Ngay khi bước chân vào đền, người ta đã thấy ngay pho tượng đức Mahavira ngồi thiền, trên trán có gắn một viên xoàn lớn. Trước khi vào đây, du khách phải cởi dây lưng, giày dép, những vật gì làm bằng da thú, sừng, ngà voi, v.v. - tuốt luốt các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế, vì giáo lý Ahimsa dạy các giáo đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá, mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì của sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt. Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Vì lòng từ bi (Ahimsa) đắp quờ quạng, lỡ có côn trùng nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm lì trong đó thì phạm tội sát sinh. không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng hè, vì thời kì đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.

Đối với người Âu, việc thực hiện Ahimsa có vẻ quá khích, và vô lý, nhưng phần nhiều phái này thực hiện pháp giới rất nghiêm trang. Họ tin rằng nếu các pháp giới

mà không giữ được thì không hy vọng gì đi xa hơn trên đường tu học.

Một số giáo sĩ Jain còn “quá khích” hơn nữa. Sau một thời kì tu ở trong đền, họ phát nguyện vào rừng tu và sống lõa thể. Họ chỉ uống nước suối, ăn trái cây, và dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng khi còn ăn cơm gạo, mặc y phục là còn mang nợ từng lớp. Còn hưởng những vật dâng cúng của tín đồ là còn mang nợ loài người. Khi tu là phải ly khai với đời, tự quờ quạng, không bận tâm đến bất cứ chuyện gì của trần gian như của cải vật chất và ngay cả mảnh vải che thân. Đạo Jain cho rằng xuống tóc là phải tuyệt tuốt ý niệm sở hữu, vì sở hữu bất cứ gì cũng đều là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến, gây trở ngại cho việc tu hành giải thoát. Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ để vào rừng lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà và thú rừng làm bạn. Họ dành hết thảy thì giờ để thiền định về ý niệm mở rộng lòng thương đến muôn loài. Nhiều tu sĩ ngồi thiền mà thú rừng kéo đến quấn quít chung quanh, không hề sợ hãi.

Các học giả người Âu đã gọi đạo này là phái “Lõa thể” vì quan niệm từ triệt để này. Điều đáng tiếc là từ ngữ “Lõa thể” thường bị đồng hóa với những việc xấu xa, mọi, thiếu văn minh. Khi người Anh đến thống trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo Jain đã bị bắt giam vì tội xâm phạm thuần phong mỹ tục, dù rằng họ chỉ sống trong rừng không tiếp xúc với tầng lớp.

Khi gác bỏ các thành kiến khác biệt, phong tục và tập quán, phái đoàn thấy đạo Jain chủ trương rất thực tiễn. Giáo phái này tin cẩn rằng sức mạnh của tình thương có thể san bằng mọi khó khăn, chướng ngại. Tuy nhiên, tình thương phải hết sức tuyệt đối. Tình thương không giới hạn vào một hạng người nào biệt lập, mà phải được ban rải đồng đều cho tuốt tuột, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Đây là một cách tân khôn cùng lớn lao vì phong tục Ấn Độ vốn rất thiên bẩm, và chủ trương phân biệt giai cấp. giáo đồ đạo Jain tin rằng, con người dù mạnh hay yếu, sang hay hèn, trung lưu hay hạ lưu, bình dân hay vua chúa, đều thụ hưởng lòng thương như nhau. Lòng thương chẳng những phải bát ngát, mà còn nồng nàn như tình mẹ con, không quản lí khó khăn, hiểm. Lòng thương phải tình thật, thâm thúy phát ra từ đáy lòng, không thể giả trá hay vị nể một hoàn cảnh nào. Sau khi trải tình thương khắp đồng loại, còn phải trải rộng đến loài vật, từ con voi to lớn đến các sâu bọ nhỏ bé. Do đó, họ tránh sát sinh đành rằng mà còn không sử dụng bất cứ vật dụng nào do sự giết chóc mang lại. Đạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng sức mạnh là một thú tính cần loại trừ, và chinh phục bằng tình thương là đường lối duy nhất để giải quyết mọi việc.

Đạo Jain có khá đông giáo đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn Độ, nhưng không lan tỏa đến các nơi khác vì gặp phải sức chống đối của Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Lịch sử Ấn Độ ghi nhận Hồi giáo đã tiêu diệt Phật giáo và đạo Jain một cách khôn xiết mọi rợ. Hơn nữa, quy tắc khắt khe của tôn giáo này không mấy ai theo nổi, và các tu sĩ bịt mặt, lõa thể dễ bị thế gian ngộ nhận. Có lẽ vì vậy mà đạo này chỉ phát triển ở các vùng hẻo lánh miền sơn cước.

Ashmah là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. phái đoàn dừng chân ở đây một thời kì cho lừa, ngựa ngơi nghỉ. Một lý do nữa là gần đó có một di tích lịch sử quan yếu: Ngôi đền lặng yên.

Đó là một kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4.000 năm nay. Trong đền không có hình tượng gì mà chỉ là một căn phòng to lớn, nghiêm trang. Bước vào ngôi đền tĩnh, vơ mọi người đều thấy trong lòng bỗng lắng xuống trong một cảm giác bình an khôn tả. Tục truyền, hoàng đế Rapoor mang quân đi chinh phục các nước hàng xóm, đã gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua nên bỏ ý định

chinh phục bằng sức mạnh, mà chỉ nên lấy nhân ngãi mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh bãi binh, khuyến khích nhân dân sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền yên bình, thịnh trị.

thời kì trôi qua, đến nay chẳng còn mấy ai biết đến thời đại của hoàng đế này, nhưng ngôi đền được xây cất để kỷ niệm sự mở mắt của nhà vua vẫn còn tồn tại. Khi bước chân vào đây, không ai được nói một lời nào mà phải tuyệt đối giữ yên lặng. Lý do ngôi đền không có hình tượng gì là để nói lên cái chân lý tuyệt đối vốn vô hình, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ đền đã giảng giải cho phái bộ.

- Đền yên ắng là nơi chốn của quyền năng, vì lặng yên đồng nghĩa với quyền năng. Khi con người đạt đến chỗ lặng im trong tư tưởng thì họ đã đến chỗ mà tuốt tuột đều là sự thống nhất với quyền năng thiêng. Con người có sức mạnh tư tưởng nhưng vì vô ý thức, họ đã để cho nó hao tán. Qưyền năng hao tán là Động, còn tụ hợp là Tĩnh. Khi tụ tập mọi sức mạnh tư tưởng vào một trọng tâm sinh lực duy nhất, con người tiếp xúc với Thượng đế. Khi thống nhất với đấng thiêng, ta thống nhất với mọi quyền năng và đó là di sản tâm linh tối hậu. Phương pháp duy nhất để hòa hợp với đấng lẻ là tiếp xúc với ngài một cách ý thức, từ ngoại cảnh để quay về với nội tâm, vì đấng thiêng liêng ẩn tàng trong tâm con người. Khi con người tự ảo giác của kiêu mạn, bản ngã, nhận thức sự vô minh, hèn kém của mình và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi, đó là tu thân. Người ta không thể dạy dỗ điều gì cho những cá nhân tự phụ tự thị, vì chỉ có người khiêm tốn mới thấy được chân lý. Đấng thiêng liêng không nghe các lời cầu xin rầm rĩ lặp đi lặp lại, mà chỉ nghe những lời cầu nguyện chân thành của những kẻ đến với ngài bằng trái tim, sùng kính ngài bằng tâm hồn và sự im lặng. Kẻ nào xúc tiếp với ngài trong ầm thầm sẽ nhận biết quyền năng của ngài do sự hiện thực hóa những điều họ đã tình thực mong muốn.

- Nhưng nếu không nguyện cầu theo các sách vở, thánh kinh, làm sao tín đồ có thể hiểu biết về đạo mà họ đang theo đuổi?

- Minh triết nảy sinh từ sự yên ắng. Thượng đế không cần ta phải tuyên dương ngài một cách ầm ĩ hay bằng một ngôn ngữ gì. Khi một giáo đồ tình thực trong yên ắng, người đó sẽ hòa hợp tư tưởng với ảnh hưởng lẻ; và ảnh hưởng này chỉ có thể nhận biết được khi lòng ta vắng lặng. Khi tâm hồn hoàn toàn an tĩnh, ta có thể tự phân tích mình, trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những mặc khải từ cõi trên. Chỉ trong sự vắng lặng, con người mới tinh thần năng lực trong mình và chung quanh mình. Chỉ trong yên ắng các quyền năng tiềm tàng mới nảy và nảy nở. Tâm có an thì việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng mới chịu tĩnh. Con người có thoát khỏi các rầm rĩ náo nhiệt bên ngoài thì mới đón nhận được các hòa âm diệu huyền đến từ cõi vô hạn. Con người cần khám phá rằng hạnh phúc ở trong tâm mình. bây chừ phần đông đều lóng hạnh phúc ở bên ngoài, nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong phút giây, thay vì hạnh phúc vô bờ. vơ phương pháp chừng bên ngoài đều tuyệt vọng. Con người phải biết quay về nội tâm vì mọi hình tướng, nghi thức đều là sự áp chế.

- Nhưng làm sao tìm thấy điều gì khi ngồi yên ắng?

- Con người sẽ dần dần ý thức được chính mình. tất nhiên, điều này đòi hỏi một thời gian. Họ sẽ tìm thấy ở mình một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật, cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm cảnh giải thoát không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng “tôn giáo”, kết tinh bởi sự nảy nở, thăng hoa các ý thức sâu kín trong nội tâm. Con người sẽ tự mình tìm thấy câu giải đáp khi họ tinh thần được bản tính của chính mình và sự ảnh hưởng cao cả của Thượng đế. Và khi đó, mọi sự cữ ở ngoại cảnh sẽ kết thúc.

- Những điều ông nói rất hay, nhưng nếu không có sách vở hướng dẫn, làm sao con người biết đâu mà tìm để đạt đến thể đó?

- phần đông người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương pháp, giáo lý hướng dẫn thế cuộc. Do đó họ dễ bị chỉ dẫn sai lạc, lầm lẫn. Phải tự mình suy gẫm và tìm lấy con đường cho chính mình mới là phương pháp đúng đắn. Con đường đánh tháo đòi hỏi sự dũng mãnh và nỗ lực cá nhân, vì không đường nào giống đường nào. Lịch sử cho thấy có sao tôn giáo rao truyền chân lý cực kỳ tốt đẹp, nhưng có mấy giáo đồ nghiên cứu tận tường? phần đông đều ỷ lại vào các giáo sĩ hướng dẫn. Chính các giáo sĩ còn chưa giải thoát được cho chính mình thì còn cứu độ cho ai nữa? Đó là lý do hoàng đế Rapoor xây dựng ngôi đền yên ắng và trong đó không có một pho tượng, một hình ảnh hay tiếng nói nào, để tránh đi vào con đường của các tông phái Ấn giáo. Thượng đế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối; ngôn ngữ, hình ảnh không thể bộc lộ được. Chỉ trong sự lặng im hoàn toàn phá bỏ tuốt luốt hình tướng, nghi thức, con người mới tự do sống bình an với nhau, hiểu sự can hệ giữa mình và đồng loại. Con người thường suy tư về sự can hệ giữa người với người, nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên tính. Nó luôn luôn sai lạc nếu nó khảo sát sự vật xuyên qua bản ngã. Tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ thoát khỏi các định kiến, điều kiện bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, mà còn là đánh tháo ta ra khỏi các áp lực bắt ta phải nghĩ suy theo một lề lối nào đó. Đây là một chân lý chỉ tìm thấy trong sự lặng yên, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, hình tướng, ngôn từ, các thành kiến dị biệt, các cưỡng bức tư tưởng, các sợ hãi bắt nguồn từ vô minh. Chỉ khi nào hoàn toàn tự do, con người mới thực sự bình an và đánh tháo.

phái đoàn giã biệt vị giáo sĩ giữ đền. Cuộc thăm viếng tuy ngắn ngủi nhưng đã gây một ấn tượng tốt đẹp với mọi người. dường như có một luồng điện từ vô hình phảng phất quanh ngôi đền, khiến ai cũng thấy trong lòng dào dạt một sự bình an khó tả. Lối tu trong yên lặng không còn là một vấn đề trừu tượng, vô bổ như họ nghĩ. quả tình xứ Ấn còn rất nhiều điều để cho người Âu học hỏi và nghĩ suy.

Xem thêm: Hành Trình Về Phương Đông P2